Welcome to BEAR’s BLOG!!!

Archive for the ‘Stock’ Category

Đọc Đối thoại với tương lai – Nguyễn Trần Bạt: Về thị trường chứng khoán

Posted by BEAR trên Tháng Một 1, 2011

http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Sach-Hay/Doi_thoai_voi_tuong_lai/

Về thị trường chứng khoán

Hỏi: Chúng tôi biết rằng, ngay ở thời điểm thị trường chứng khoán nóng bỏng nhất, ông đã tiên đoán chỉ một thời gian nữa chỉ số chứng khoán sẽ giảm xuống còn một nửa. Bây giờ thị trường diễn biến đúng như thế. Những biến động không còn là của riêng thị trường chứng khoán mà nó đã lan sang lĩnh vực tài chính và rất nhiều vấn đề vĩ mô khác. Vì thế, chúng ta cần tiếp tục dự báo những căn bệnh nặng hơn có thể xảy ra và tìm những phương thuốc đặc trị cho chúng. Với tư cách một nhà tư vấn đầu tư, ông đánh giá thế nào về thị trường tài chính, thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?

Trả lời: Thực ra, hiện tượng đang diễn ra trong nền kinh tế Việt Nam không có gì mới lạ, nó không phải là hệ quả của sự tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế quốc tế như nhiều người giải thích, mà là kết quả rất “thuần Việt Nam”, và nó tất yếu phải xảy ra. Nếu không có sự xì hơi của quả bóng chứng khoán thì quả thật, chúng ta vẫn sống trong thời đại được xem là còn những câu chuyện thần kỳ. Tại sao tôi lại nói như vậy? Các bạn biết là ngay khi thị trường chứng khoán đang lên và trở thành miền đất hứa của rất nhiều người muốn giầu có một cách nhanh chóng bằng sự đầu tư và lao động ít nhất, tôi đã dự báo trước tình trạng như thế này và tôi sẽ đi từng tầng một để phân tích những dự báo ấy.

Trước hết là tầng cơ bản, tầng của những hiện tượng thuần kinh tế, ví dụ như thị trường chứng khoán. Theo định nghĩa cổ điển, thị trường chứng khoán là nơi gặp gỡ của các ý tưởng kinh doanh và vốn. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo Straits Times Singapore, tôi đã nói rằng, trên thị trường chứng khoán có rất nhiều thứ nhưng quy ra thì có hai loại hàng hoá chủ yếu.

  • Thứ nhất là loại đã được đầu tư và bây giờ, người ta muốn thu hồi vốn.
  • Thứ hai là bán các ý tưởng kinh doanh mới và gọi vốn đầu tư để triển khai những ý tưởng này.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, khi tổ chức thị trường chứng khoán, chúng ta đã không xây dựng một thể chế, một cơ cấu, một lực lượng để kiểm soát chất lượng của hàng hoá giao dịch trên thị trường chứng khoán.

Hầu hết, các công ty khi phát hành cổ phiếu không được kiểm toán dựa trên những tiêu chuẩn rành mạch để có thể đánh giá đúng giá trị của họ, các ý tưởng kinh doanh mới cũng không được nghiên cứu và xem xét thận trọng. Bởi vậy, có thể nói, đó là một thị trường hàng hoá rất nhập nhằng về giá trị, nhưng nó vẫn sôi động được là do tâm lý đám đông. Cho nên, khi báo Straits Times Singapore đề nghị tôi có lời khuyên thì tôi từ chối bởi không ai có thể can những kẻ đã uống hết một chai Vodka.

Tôi biết chắc chắn là với những loại hàng hoá như thế này thì sớm hay muộn, nó cũng khủng hoảng. Bỏ qua tất cả các chính sách hoặc các tác động sai lầm có thể có của Chính phủ hoặc Ủy ban chứng khoán trong quá trình điều hành, thì với tình trạng xuất hiện của rất nhiều cổ phiếu phi chất lượng, sự thức tỉnh giá trị sẽ đến và chỉ số chứng khoán sẽ rớt.

Đấy là chưa kể khi chỉ số chứng khoán lên quá cao, chúng ta đã bàn đến những việc như thu thuế từ lợi nhuận do buôn bán chứng khoán mang lại. Rất nhiều bài bình luận trên các phương tiện thông tin nói rằng sai lầm thuộc về những điều tiết vi mô của các công ty, nhưng tôi cho rằng những sai lầm đó cũng có thể làm giảm cơn sốt của thị trường chứng khoán song nó không có tác động đủ lớn để dẫn đến sụp đổ, mà đây là hiện tượng sụp đổ.

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán chính là sự bất cẩn trong quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của một thị trường có chất lượng chuyên nghiệp nhất trong tất cả các khái niệm về thị trường của nền kinh tế hiện đại. Đi tìm những nguyên nhân kỹ thuật khác cũng tốt, nhưng nó không có ích trong việc điều chỉnh lại hoặc để làm hưng phấn lại thị trường ở giai đoạn này, mà tốt cho việc rút kinh nghiệm ở giai đoạn sau, giai đoạn cấu trúc lại thị trường chứng khoán.

Sự bất cẩn trong quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của thị trường chứng khoán được thể hiện trong việc kiểm soát chất lượng cổ phiếu phát hành ra thị trường và việc sử dụng các nguồn lợi thu được trong quá trình hoạt động vào các mục đích phát triển kinh doanh.

Nói cách khác, thay vì là một cơ cấu gọi vốn phát triển, thị trường chứng khoán trở thành một cơ cấu đầu cơ quẩn trong tầng buôn bán các giấy tờ có giá. Vì không biến thành thị trường gọi vốn phát triển cho nên nó tự khủng hoảng và tự sụp đổ.

Người ta có thể nguỵ biện rằng, trong thị trường New York hay trong các thị trường hiện đại khác, họ vẫn điều chỉnh quá trình hoạt động bằng những cách như vậy. Nhưng người ta quên mất rằng, trước khi có các trạng thái chuyên nghiệp như thế, giai đoạn chuẩn bị cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ sở pháp lý, xây dựng toàn bộ thói quen xã hội cho thị trường và xây dựng một nền văn hoá chứng khoán của họ đã được nghiên cứu rất công phu.

Chúng ta đã bỏ qua giai đoạn như vậy để tiếp cận ngay với

giai đoạn đầu cơ chứng khoán.

Việc chúng ta bịt tất cả các lỗ rò để ngăn thị trường chứng khoán rớt như hiện nay đã làm mất hết tính chất thị trường.

Bây giờ, dù giao dịch có lên hay xuống một chút cũng không có ý nghĩa thị trường, hay nói cách khác, thực chất không còn thị trường chứng khoán nữa. Đây là trận thu dọn cuối cùng của một chiến dịch chứng khoán, còn sau này, nó được xây dựng lại, được cải tạo lại, được cơ cấu lại như thế nào để trở thành thị trường chứng khoán lành mạnh thì tuỳ thuộc vào hiểu biết của những người điều hành loại hình kinh doanh này. Tóm lại, sự bất cẩn trong quá trình chuẩn bị những lực lượng cơ bản, những yếu tố cơ bản của khái niệm thị trường chứng khoán là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự sụp đổ của thị trường này.

Hỏi: Như vậy chúng ta không thể kêu gọi nhà đầu tư phải nâng cao hiểu biết và tự mình bảo vệ mình, mà việc cần làm là phải tạo ra thị trường minh bạch và đấy là trách nhiệm của nhà nước?

Trả lời: Đúng thế, chúng ta không thể đổ lỗi cho nhà đầu tư vì sự không hiểu biết. Tất cả các thị trường chứng khoán đều hình thành và phát triển dựa trên hiệu ứng số đông, không có cái đam mê bản năng ấy thì không có thị trường chứng khoán. Phải thấy trước là các nhà đầu tư bao giờ cũng đầu tư theo bản năng và vì vậy, chính phủ phải chịu trách nhiệm bảo vệ họ bằng cách làm minh bạch quá trình đưa hàng hoá vào thị trường, tức là bảo vệ tính minh bạch của đời sống kinh doanh của các đơn vị đăng ký, bảo vệ tính minh bạch của quá trình sử dụng đồng vốn. Hầu hết các công ty phát hành cổ phiếu luôn luôn nghĩ rằng phát hành ra là phải thu tiền về, nhưng quên mất rằng tất cả các loại cổ phiếu là giấy nợ. Các công ty phát hành cổ phiếu trở thành con nợ của xã hội, nhưng xã hội chúng ta chưa hề phân tích, chính phủ cũng không kết án bất kỳ một con nợ nào mà lại bàn biện pháp để cứu họ trong khi chủ nợ không được tính đến. Chúng ta vẫn cho rằng buôn cổ phiếu là một loại đầu tư, lời ăn, lỗ chịu. Quan niệm ấy hết sức sai lầm, lời ăn lỗ chịu với điều kiện là cổ phiếu ấy phải có giá trị thật và nó dao động trong một cái khuôn khổ phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Ở đây hàng hoá không lành mạnh, cho nên sự dao động giá cả không nằm trong các khuôn khổ lành mạnh.

Hỏi: Nhưng bây giờ, chính phủ hoãn lại quá trình IPO của các doanh nghiệp lớn mà họ lại là người cung cấp những hàng hoá tốt. Có nhiều ý kiến cho rằng phải đẩy mạnh việc cổ phần hoá hơn nữa để nhà đầu tư có thể lựa chọn được những cổ phiếu tốt với giá hợp lý.

Trả lời: Phải thấy rằng bây giờ dù chúng ta mang một cái túi Louis Vuitton chính hãng vào trong một tiệm bán toàn những túi giả thì giá cũng giống nhau. Chúng ta đã có một cửa hiệu bán toàn hàng giả, đem bày các hàng thật vào đấy là tự tiêu diệt những tài sản cuối cùng của nền kinh tế. Cho nên, để bảo vệ tài sản của đất nước, Chính phủ không bán các hàng thật ngay vào lúc này là đúng. Nói cách khác, trước khi đưa ra những loại hàng hoá có giá trị chiến lược như thế này, cần phải làm trong sạch thị trường hàng hoá. Còn việc đẩy mạnh cổ phần hoá và việc đem bán các cổ phần trên thị trường chứng khoán là hai việc khác nhau. Cổ phần hoá các xí nghiệp là một quá trình song song nhưng khác với quá trình bán các cổ phần của nó trên thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một biện pháp để cổ phần hoá chứ không phải là cổ phần hoá.

Hỏi: Phải chăng chính nhà nước cũng có mâu thuẫn khi muốn cổ phần hoá nhưng lại đem bán tài sản ấy với giá cao hơn giá trị thật của nó. Tại sao Chính phủ lại định giá tài sản này 80 nghìn hay 100 nghìn đồng trong khi giá sổ sách của nó chỉ là 10 nghìn đồng?

Trả lời: Một trong những nhược điểm của Chính phủ là lẫn lộn giữa địa vị làm trọng tài của mình với địa vị của nhà phát hành cổ phiếu. Địa vị làm trọng tài cho một thị trường và địa vị của một nhà đầu tư tham gia vào một thị trường là hai địa vị hoàn toàn khác nhau. Cho nên nhà nước mất đi uy tín của trọng tài. Khi trọng tài mất uy tín thì mọi trận đấu chẳng có giá trị gì.

Chúng ta phải nhìn nhận đây là một cuộc khủng hoảng kinh tế chứ không chỉ là vấn đề lạm phát. Nếu vấn đề thuộc về quan hệ tiền – hàng đơn thuần thì nền kinh tế có khủng hoảng nhưng không sụp đổ, hay nói cách khác, có thể sụp đổ một số xí nghiệp chứ không thể sụp đổ một nền kinh tế. Ở thời điểm này, chúng ta đang tiệm cận đến sự sụp đổ của một nền kinh tế. Tất cả các thị trường cơ bản đều đang sụp đổ, tất cả các ngành kinh doanh đều giảm, ví dụ, thị trường bất động sản. Bao giờ cũng thế, khi giá hàng hoá tăng cao đến mức vượt ra khỏi mọi sự tưởng tượng thì lúc ấy, bất kỳ nhà điều hành vĩ mô nào cũng phải để ý. Nhưng dường như những nhà điều hành vĩ mô của chúng ta hoan hỉ cùng với sự tăng giá mà không biết rằng nhà nước phải đứng bên ngoài mọi cơn điên của xã hội. Nếu không có nhà nước trong đó thì tất cả chúng ta đều sướng khi tăng giá và khi chúng ta sụp đổ, chúng ta gửi niềm hy vọng của mình vào sự sáng suốt của Chính phủ. Nhưng nếu Chính phủ cùng sướng ở trong cơn sốt thì trong đống sụp đổ có cả chúng ta lẫn chính phủ, và chúng ta không biết trông đợi vào đâu. Những biểu hiện này hoàn toàn không có gì mới và đều có thể xảy ra. Những sự mất cân đối như vậy được gọi là khủng hoảng kinh tế. Đáng ra, công việc hàng ngày của các cơ quan tham mưu của Chính phủ là phải hình dung và phải chuẩn bị các kịch bản cho những tình huống khác nhau. Tuy sự khủng hoảng này không đủ để làm rối loạn thái độ của những người lãnh đạo ở các cấp cao nhất, nhưng rõ ràng, chúng ta đọc thấy sự rối loạn ấy mặc dù không ai thừa nhận nó. Họ vẫn rất tự tin nhưng sự tự tin không gắn với hiện tượng thực tế sẽ làm mất lòng tin của xã hội. Mà xã hội cần có lòng tin, xã hội mất lòng tin trong một hiện tượng không tổng thể là khủng hoảng kinh tế sẽ dẫn đến sự mất lòng tin rộng hơn. Nếu các nhà lãnh đạo của chúng ta chỉ dừng ở những phương pháp, những chương trình như hiện nay thì chắc chắn, sự mất lòng tin rộng hơn sự mất lòng tin vào các chính sách điều hành kinh tế sẽ xuất hiện.


Hỏi: Hiện nay, nền kinh tế Mỹ cũng như các thị trường tài chính khác đang gặp phải rất nhiều vấn đề. Theo ông, đó có phải là một yếu tố tác động đến cuộc khủng hoảng kinh tế này không?

Trả lời: Các bạn biết rằng khi tất cả chúng ta ra biển, gió thổi vào mọi người như nhau nhưng có người hưởng cái cảm giác mát mẻ, có người thì ốm và có người thì gục ngã. Vậy, sự phản ứng của mỗi người trước gió là khác nhau, tuỳ thuộc vào thái độ, vào năng lực chuẩn bị của mỗi người. Năng lực chịu đựng tất cả các tác động chung như thế của đời sống kinh tế thế giới là năng lực phải có trong quá trình hội nhập. Chúng ta vẫn nói việc hội nhập với thế giới giống như đi ra biển lớn, nhưng mới ra khỏi bờ một quãng, chúng ta đã rối loạn điều hành thì làm thế nào để ra xa hơn được? Tình trạng rối loạn điều hành làm mất đi chỗ dựa tinh thần của cả một xã hội. Đấy cũng là một trong những thất thiệt bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.

Câu hỏi của bạn thể hiện tâm lý của phần đông chúng ta là vẫn luôn đi tìm đối tượng chịu trách nhiệm cho những khủng hoảng trong xã hội. Điều đó là đúng. Nhưng một trong những thiếu sót của chúng ta là không xây dựng được quy chế xác định trách nhiệm, và do đó, mọi sự thể nghiệm dẫn đến mất mát đều không quy nổi trách nhiệm. Chúng ta không có những quy chế được chuẩn bị trước để giải quyết tình huống khủng hoảng của một thị trường quan trọng như thị trường chứng khoán. Chúng ta không chuẩn bị sẵn các giải pháp, chúng ta không bảo hộ quyền lợi của một đối tượng nào cụ thể. Chúng ta không hiểu rằng trong một nhà nước xã hội chủ nghĩa, con người có năng lực đề kháng kém nhưng họ chính là nguồn cảm hứng cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Đã có hàng trăm hiện tượng không lành mạnh như chuyện vợ chồng ly hôn để chia nhau hàng nghìn tỷ giá trị cổ phiếu chiến lược, một vài lãnh đạo công ty và cổ đông chiến lược mua những biệt thự với giá hàng chục tỷ đồng… đầy rẫy trên mặt báo, nhưng dường như các cơ quan thực thi pháp luật không mấy quan tâm. Hiện nay, Bộ Công an có bộ phận nào chuyên trách về vấn đề điều tra, xử lý những sai phạm để bảo vệ tính minh bạch của thị trường chứng khoán không? Cơ quan công tố dựa vào bộ luật nào, công cụ pháp luật nào để có thể khởi tố những hiện tượng tiêu cực trong thị trường chứng khoán? Toà án của chúng ta đã có các chuyên gia để xử những tranh chấp hoặc những sai phạm ấy không? Tất cả các lực lượng xã hội đều không được chuẩn bị để cứu hộ một thị trường cực kỳ quan trọng và hiện đại như thế này trước những trạng thái tiêu cực của nó. Đấy chính là sự bất cẩn trong quá trình chuẩn bị. Nhà nước cũng không có sự chuẩn bị cơ sở hạ tầng xã hội trong việc bảo vệ thị trường cũng như bảo vệ nhà đầu tư, vì thế, đây là một cái chợ cóc không có sự quản lý thị trường. Ví dụ, một công ty đối nhân như công ty Luật của tôi cũng đưa lên sàn hoặc mang một tài sản nào đó ra bán ở thị trường thứ cấp (OTC) thì tôi thấy rất lạ. Tôi có hàng trăm khách hàng, có hàng trăm hợp đồng, nếu tôi thấy mình đã đủ tiền và tôi bán công ty dưới dạng phát hành cổ phiếu, tức là tôi chối bỏ trách nhiệm của cá nhân tôi đối với khách hàng. Sau đó, một người không có hiểu biết gì về công việc của công ty lại mua được cổ phần của tôi và trở thành chủ tịch. Tất cả những loại hình giao dịch như vậy chứa đầy hiểm họa và nhà nước, mà đại diện là Uỷ ban chứng khoán phải thấy trước được điều đó.

Hỏi: Trong những giải pháp vừa rồi, ông rất chú trọng việc bảo vệ các cổ đông, đấy là một ý kiến hay. Vậy trách nhiệm của người phát hành sẽ như thế nào?

Trả lời: Nếu tất cả các cổ phiếu rớt giá một cách thảm hại thì nhà nước phải tổ chức điều tra ngay trách nhiệm của thị trường tới đâu, trách nhiệm của người sản xuất hàng hoá tới đâu. Nếu phát hiện thấy sự giả mạo trong các hàng hoá lưu hành trên thị trường thì đấy là tội hình sự. Nhưng ai chứng minh được tài sản của người ta khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu vẫn còn nguyên? Ví dụ, tôi gọi được 1 tỷ tiền vốn, tôi đầu tư vào một quán café, khi cổ phiếu rớt giá nhưng với tư cách là người phát hành cổ phiếu thì tôi vẫn còn tài sản là cái quán café kia. Liệu tôi có chứng minh được với Ủy ban chứng khoán, với toà án là tài sản của tôi không giảm đi không? Hiện nay, tôi chưa thấy có bất kỳ một dư luận gì về việc các nhà phát hành cổ phiếu phải chịu trách nhiệm như thế nào trước sự khủng hoảng của thị trường chứng khoán. Làm mất mát tài sản của xã hội, đấy là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân, tất nhiên, để quy thành tội trong hệ thống luật pháp thì bộ phận kỹ thuật pháp lý còn phải nghiên cứu sâu sắc hơn, chi tiết hơn nữa. Nhưng ở đây, tôi không thấy có sự điều tra nào, không có sự khởi tố nào. Chúng ta không làm được việc ấy vì chúng ta không chuẩn bị, từ Bộ Công an, Cơ quan điều tra, Cơ quan khởi tố cho đến Cơ quan tư pháp, Toà án, Viện kiểm sát đều không được chuẩn bị, đều không có bộ phận chuyên trách về vấn đề này. Bất kỳ thị trường nào cũng phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật liên quan đến cả hoạt động bình thường và hoạt động khủng hoảng, liên quan đến cả hoạt động đúng đắn và hoạt động sai phạm. Chúng ta không có sự điều chỉnh ấy tức là chúng ta không có thị trường minh bạch.

Hỏi: Chúng ta đang hội nhập quốc tế và để có một nền kinh tế phát triển hơn, chúng ta phải có một thị trường chứng khoán phát triển. Xin ông cho biết, trong giai đoạn này, điểm bắt đầu lại sẽ như thế nào?

Trả lời: Tôi không đồng ý với bạn về việc chúng ta hội nhập thì chúng ta phải có thị trường chứng khoán. Việc phát triển một nền kinh tế khác với việc có một nền kinh tế hiện đại. Phải nói rằng, trong giai đoạn này, chúng ta chưa đủ năng lực để xây dựng được một thị trường chuyên nghiệp như thị trường chứng khoán. Xã hội chúng ta chưa đủ năng lực, nhà nước của chúng ta chưa đủ năng lực, các chủ doanh nghiệp của chúng ta chưa đủ năng lực, kể cả năng lực trí tuệ lẫn năng lực đạo đức. Tôi đã có lần nói rằng, tôi sợ thị trường chứng khoán này sẽ tiêu diệt thành quả của 20 năm xoá đói giảm nghèo, một trong những thành tích quan trọng nhất của chính phủ chúng ta mà thế giới đã công nhận. Những nhà nước được xây dựng trên nguyên lý của chủ nghĩa xã hội có một ưu điểm không thể phủ nhận được là có thành tích trong xoá đói giảm nghèo, bởi nó được lãnh đạo bởi một đảng bênh vực quyền lợi của số đông. Nhưng thị trường chứng khoán này là một bằng chứng làm ngược lại giá trị truyền thống của những nhà nước ấy.

Bằng chứng thứ hai là lạm phát, tăng giá. Cái gọi là lạm phát của chúng ta bắt đầu từ quyền tăng giá các sản phẩm. Chúng ta có một xã hội mà năng lực tài chính của nó rất hữu hạn, chúng ta kích động xã hội bỏ tiền vào một khu vực này thì những khu vực khác sẽ khan hiếm tiền, những khu vực khan hiếm tiền sẽ giảm nhịp điệu sản xuất, tức là giảm khả năng cung, và khi đó thì tăng giá là tất yếu. Tôi cho rằng, toàn bộ sự tăng giá hiện nay là hệ quả của sức nóng từ thị trường chứng khoán, bởi vì khi tâm lý con người dồn vào những chuyến buôn bán ăn ngay thì khu vực sản xuất bị lãng quên về mặt tâm lý, khu vực sản xuất bị lãng quên về mặt tâm lý thì trì trệ, dẫn đến thiếu hàng hoá, thiếu hàng hoá thì giá tăng. Hơn nữa, sự tăng giá của chúng ta còn bị kích động bởi sự tăng giá toàn cầu. Trong một xã hội hoàn toàn mở thì sự lưu chuyển tiền vốn tuân theo các quy luật thông nhau, nhưng trong một xã hội vẫn còn khép kín, chúng ta tiêu tiền ở khu vực này thì khu vực khác sẽ suy giảm, do đó dẫn đến tăng giá. Chúng ta không những làm mất tiền của những người nghèo có năm bảy đồng để buôn bán chứng khoán, mà còn làm mất tiền vô hình của họ bằng cách tăng giá ở bộ phận khác.

Để cấu trúc lại thị trường chứng khoán, chúng ta phải dành thời gian xây dựng lại toàn bộ hệ thống điều hành xã hội chứ không chỉ xây dựng hệ điều hành cho nó. Nghĩa là chúng ta phải xem nó là một thị trường chuyên nghiệp chứ không phải là nơi thực thi các hành vi bản năng thuần tuý và không phải là nơi chơi chung giữa nhà nước với các công ty. Nhà nước phải đứng ra ngoài các công ty. Có các công ty thuộc sở hữu nhà nước nhưng nhà nước phải xem nó bình đẳng với các công ty thuộc các khu vực kinh tế khác. Nhà nước phải đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty thuộc các loại hình sở hữu khác nhau thì mới hy vọng có thể tạo ra một thị trường chứng khoán. Bởi vì toàn bộ tính bình đẳng của các khu vực kinh tế được thể hiện tập trung ở thị trường chứng khoán.

Tất cả những nội dung nói trên thuộc về tầng thấp, tầng cơ bản. Đấy là chúng ta nghiên cứu tính nổ dây chuyền giữa các thị trường để nhận biết sự sai lầm một cách có hệ thống của toàn bộ việc xây dựng chính sách vĩ mô.

Bây giờ chúng ta chuyển sang tầng thứ hai, tầng điều hành vĩ mô, nói cách khác, đó là tầng của mối quan hệ biện chứng giữa các chính sách vĩ mô đối với nền kinh tế. Vậy, chúng ta đã điều hành vĩ mô như thế nào?

  • Sai lầm đầu tiên là chúng ta đã có một hệ thống ngân hàng càng ngày càng mắc nhiều khuyết tật. Theo định nghĩa cổ điển, ngân hàng là những cơ sở cung cấp dịch vụ cho quá trình lưu thông tiền tệ một cách lành mạnh. Vì thế, các tập đoàn kinh tế không được mở ngân hàng riêng cho mình như là một công cụ tư hữu và rút dần tiền bạc của xã hội. Nhưng trong xã hội chúng ta, việc mở các ngân hàng riêng đã trở thành một sự cạnh tranh giữa các công ty và các ngân hàng được mở ra không chỉ để cung cấp dịch vụ tốt hơn mà còn để vơ vét tài chính của quốc gia. Đấy là một biểu hiện của sự thiếu hiểu biết và nó tạo ra một hệ thống ngân hàng rất không lành mạnh.

Ngân hàng là một công cụ buộc phải giữ được tính trung lập xã hội, nếu ngân hàng trở thành công cụ riêng của các tập đoàn kinh tế thì đấy là tai họa. Chúng ta bắt đầu có hệ thống ngân hàng tai họa. Trong một nền tài chính mà tổng số vốn vào khoảng 60 tỷ đô la nhưng có đến gần 100 ngân hàng, số lượng ấy lớn hơn hẳn số lượng ngân hàng cung cấp dịch vụ tiền tệ cho một nền kinh tế 16.000 tỷ đô la như Hoa Kỳ. Bây giờ còn có thị trường liên ngân hàng, nó giống như thị trường chứng khoán, tức là buôn bán xoay vòng giữa các công ty cổ phần của một công ty mẹ chứ không phục vụ, không gọi vốn để phát triển. Thị trường liên ngân hàng là nơi các ngân hàng buôn vốn, buôn tiền và cho vay lẫn nhau, cuốn vào đấy toàn bộ tiền mặt của xã hội. Chúng ta không phủ nhận là có thị trường liên ngân hàng nhưng thị trường ấy phải hình thành trong quá trình cứu hộ chứ không phải trong quá trình kinh doanh cụ thể. Thị trường liên ngân hàng khác với liên minh các ngân hàng. Người ta chống tờ-rớt hoặc chống ca-ten là chống sự liên minh độc quyền. Chúng ta tạo ra một thị trường mà tất cả mọi ngân hàng đều liên minh với nhau trên một loại hàng hoá và nó trở thành hệ tuần hoàn của cả xã hội, thì đấy không phải là chống tờ-rớt nữa mà là “tờ-rớt hoá” toàn bộ lĩnh vực kinh doanh quan trọng nhất, lĩnh vực kinh doanh cần trung lập về mặt thái độ nhất, là lĩnh vực tài chính. Đấy là một sai lầm căn bản.

Tôi đã đi nhiều nơi trên thế giới và thấy hàng hoá Việt Nam gần như không có gì đáng kể. Chúng ta chưa đến giai đoạn có một nền sản xuất công nghiệp nhưng lại muốn trở thành thị trường tài chính, đấy là điều không hợp lý. Nguyên sự xuất hiện thị trường chứng khoán đã tạo ra sự biến động toàn bộ lực lượng lao động của xã hội. Các cơ quan, từ nhà nước đến tư nhân, đều lúng túng bởi cơ cấu tiền lương phụ thuộc vào năng lực của xã hội bị phá vỡ. Các lực lượng lao động xã hội từ công nhân cho đến giới thượng lưu đều làm việc trong trạng thái không yên ổn. Người ta không còn để ý đến chuyên môn, không còn để ý đến phát triển sự nghiệp lâu dài. Tóm lại, thị trường chứng khoán của chúng ta đã phá vỡ sự yên tĩnh lành mạnh của xã hội.


Hỏi: Phải chăng những sự biến động ấy là kết quả của tâm lý phiêu lưu ngắn hạn của người Việt?

Trả lời: Đấy không phải là tâm lý phiêu lưu ngắn hạn, nếu không có sự sụp đổ này thì cuộc phiêu lưu ấy còn dài hơn nữa. Phải nói rằng, hiện tượng rớt thẳng đứng của thị trường chứng khoán có giá trị thức tỉnh rất lớn. Chính phủ không đánh giá được như vậy, chính phủ định cứu thị trường chứng khoán mà không biết nó đã đem lại tình trạng bất ổn cho xã hội. Đấy là sự bất cẩn chính trị. Từ sự bất cẩn kinh tế, chúng ta phạm phải rất nhiều sự bất cẩn chính trị. Chúng ta thấy huy động được tiền dễ quá, cho nên xuất hiện một cách ồ ạt các dự án bất động sản. Sự lấn át của khu vực bất động sản sang khu vực sản xuất nông nghiệp dẫn đến một nguy cơ nhãn tiền là an ninh lương thực trong nước có vấn đề, xuất khẩu gạo chắc chắn sẽ gặp khó khăn, tức là việc lấn át một cách không thoả đáng sự phát triển thị trường tài chính ảnh hưởng đau xót đến khu vực nông nghiệp và nông thôn.

Hỏi: Thực ra, thị trường chứng khoán của chúng ta chỉ phát triển chủ yếu ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Vậy, tại sao ông lại cho rằng nó lan được đến vùng nông thôn?

Trả lời: Tất cả những kẻ lừa đảo đều phải tìm đến từng ngõ ngách của đất nước để tiêu thụ hàng rởm. Trong thời kỳ bao cấp, chúng ta có rất nhiều xe Volga, xe Lada. Sau khi mở cửa, chúng ta có xe Toyota second-hand, tay lái nghịch. Cái Volga, cái Lada cũ bán đi đâu? Các bạn chỉ cần ra khỏi Hà Nội 100 km là thấy nó hoạt động ở đấy. Trước đây ở Hà Nội có nhiều xe máy Minsk, đến khi xe Honda Dream xuất hiện thì các bạn tìm thấy các loại xe Nga cũ ấy ở Lạng Sơn. Theo quy luật lan truyền không chống lại được của các hàng hoá second-hand về các vùng nông thôn thì tức là chúng ta gán cả nghèo đói lẫn lạc hậu về nông thôn. Và bây giờ, những kẻ sau khi mua được hời chứng khoán không chỉ bán lại cho nhau ở trong đô thị, họ còn đi về các địa phương như Long An, Lạng Sơn, Tuyên Quang để mua các công ty rồi đưa lên sàn. Họ bán lại chúng cho những người ở nông thôn, bất kể là người có nhiều tiền hay ít tiền. Đấy là hiện tượng lan truyền, do đó, nó lan đến cả nông thôn. Cách đây một năm, tôi đã nói rằng nếu không khoanh thị trường chứng khoán lại ở khu vực các đô thị lớn thì chắc chắn, tai họa sẽ dồn lên đầu người nông dân, nhưng không có một nhà điều hành vĩ mô nào làm như vậy. Đây là một sơ suất có tính tội ác. Sơ suất vì tất cả những kẻ chủ động không phải là chính phủ, mà là một bộ phận tiêu cực trong các quan chức hoặc công chức của chính phủ. Phải nói như thế mới công bằng vì chính phủ không hề lừa gạt nông dân, nhưng họ vô tình tạo điều kiện cho tai họa. Theo tôi, đây là một trận bão lớn hơn nhiều cuộc khủng hoảng tài chính năm 1989. Bản chất của nó cũng khác bởi cuộc khủng hoảng năm 1989 là kết quả của nền kinh tế bao cấp, là kết quả của chiến tranh, của các tư tưởng kinh tế sai để lại.

Hiện nay, các cơ quan truyền thông của chúng ta chưa dùng từ “khủng hoảng” để nói về thực trạng của thị trường chứng khoán cũng như toàn bộ nền kinh tế, mà chỉ nói đến một số khó khăn. Đấy là một lỗi lớn của truyền thông, hay nói cách khác, đấy là tính không độc lập, tính thiếu tự do của truyền thông. Vì thế, truyền thông không còn là công cụ hỗ trợ xã hội mà trở thành công cụ che giấu những thất bại hoặc những rủi ro tiềm ẩn trong đời sống.


Hỏi: Ở trên, ông có nói rằng chúng ta lơ là sản xuất, tức là kém đầu tư. Nhưng qua một năm hội nhập sâu rộng, rõ ràng nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào rất lớn. Có thể, nguồn tiền lớn hơn mới chính là nguyên nhân gây lạm phát?

Trả lời: Chúng ta cứ nói vậy thôi. Là một nhà tư vấn đầu tư nước ngoài 20 năm nay, tôi biết rất rõ, trong 10 đồng tiền vốn hứa mới có 3 đồng đã bỏ vào, 7 đồng đi vay, thể hiện dưới dạng nhập siêu, và 7 đồng đi vay ấy chính là nợ của quốc gia, nhưng ngay cả nợ ấy cũng không phải là nợ thật bởi chúng ta chưa có tiền trên thực tế. Chúng ta chưa có tiền trong khi những kẻ đầu cơ chứng khoán đã thu được tiền Việt tiềm ẩn. Theo một bài phân tích mới đây, giới đầu cơ đã thu được khoảng 500.000 tỷ VNĐ, rồi quy đổi ra bằng đô la, vì thế giá đô la tăng vọt từ 15.500/USD lên đến hơn 16.000/USD. Không có một nền kinh tế lành mạnh nào lại có sự biến động giá cả kỳ quặc như thế. Ngay cả những kẻ đầu cơ chứng khoán cũng đã bắt đầu thức tỉnh về nguy cơ sụp đổ của thị trường chứng khoán nên mới có chuyện tăng giá đô la. Tăng giá đô la là kết quả của việc thu quân. Mua đô la bằng tiền Việt tức là những kẻ nhạy cảm về tài chính nhất trong xã hội đã nhận thấy sự rủi ro của tiền Việt, mà rủi ro của tiền Việt đổ lên đầu ai? Nhân dân. Nhân dân của chúng ta là một “sân khấu bằng đất nện” mà trên đấy, các nghệ sĩ nghiệp dư nhảy múa, nghệ sĩ kinh tế, nghệ sĩ chính trị, các nhà khoa học rởm… Còn các nhà đầu tư nước ngoài là những đạo diễn chuyên nghiệp, đạo diễn một vở kịch dựa trên sự không tự giác và không hiểu biết của các diễn viên, bất kể loại nào.

Hỏi: Nhưng các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ khoảng 30% vốn trên thị trường chứng khoán, một con số không nhỏ và vì vậy, việc rút chân ra không phải dễ dàng, họ phải tính đến chuyện rút làm sao cho khéo để thị trường khỏi sập.

Trả lời: Tại sao các bạn lại có những ý nghĩ ngây thơ như vậy? Tôi cho rằng họ nắm đến 70% lợi ích từ thị trường chứng khoán chứ không phải 30%. Tất cả những con số phân tích theo kiểu của các nhà lý thuyết là không đúng, bởi vì đây là một thị trường đầu cơ, đã là thị trường đầu cơ thì người ta không thông báo cho xã hội biết lợi ích thật của mình. Còn các cổ phiếu được giam giữ bởi những cổ đông chiến lược chỉ là những con tin hình thức. Lợi ích thật không nằm trong số cổ phiếu chiến lược, mà việc chiếm giữ các cổ phiếu phi chiến lược của những công ty khác mới chính là nguồn thu lợi. Hoạt động buôn bán diễn ra trong các cổ phiếu phi chiến lược. Trên thị trường chứng khoán của chúng ta còn có hiện tượng rất lạ là tách cổ phiếu. Hiện tượng đấy thật ra cũng qua rồi, những ai cần học bài học gì thì đã có rồi, những ai thu được tiền thì cũng thu rồi, những ai mất tiền thì cũng mất rồi. Tất cả những giải pháp để kéo thị trường chứng khoán lên một chút chỉ là sự kéo dài những nhịp thở thoi thóp cuối cùng mà thôi. Khi hạ biên độ giao dịch xuống còn 1% – 2% thì cổ phiếu cũng lên, nhưng mới chỉ nới rộng biên độ đến 2% – 3% thì cổ phiếu lại xuống, và nếu mở biên độ như cũ thì cổ phiếu còn xuống thảm hại hơn trước. Ở đây, chúng ta đừng nghĩ về thị trường chứng khoán chỉ như là bản thân nó.

  • Những căn bệnh của thị trường chứng khoán chỉ là biểu hiện của một căn bệnh tiềm ẩn bên trong nền kinh tế Việt Nam. Đó là, toàn bộ hệ thống điều hành nhà nước là có vấn đề, toàn bộ hệ thống chính sách vĩ mô là có vấn đề, toàn bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kinh doanh ở ngân hàng là có vấn đề.

Hỏi: Như vậy, chúng ta đang đứng trước những khó khăn rất lớn. Với tư cách là một người sáng suốt và có kinh nghiệm, ông thấy đường đi sắp tới của chúng ta như thế nào?

Trả lời: Phải nói cho đúng rằng tôi là người ngoài cuộc chứ không phải là người sáng suốt. Tôi không tham gia vào những quá trình tiêu cực như vậy cho nên tôi giữ được sự minh mẫn của mình. Tôi không thông minh hơn người khác, thậm chí, tôi không đủ thông minh để tham gia vào những quá trình ấy mà tồn tại được, cho nên tôi đứng ngoài, tôi không bị cái cơn lốc kinh tế này giày vò, chi phối.

Về đường đi sắp tới của chúng ta, tôi cho rằng chúng ta phải cải cách. Phải cải cách để các cơ quan chức năng của chính phủ trở lại hoạt động lành mạnh. Phải cải cách để các cơ cấu chức năng phục vụ cho đời sống kinh tế và kinh doanh của xã hội trở nên trung lập và lành mạnh. Phải cải cách để khôi phục lòng tin của xã hội đối với các cơ cấu điều hành. Nếu không, sẽ không giải quyết được vấn đề gì cả. Vì thế, đây là bài toán rất khó. Bây giờ khi chúng ta đề ra biện pháp phải cắt giảm chỉ tiêu tăng trưởng thì tất cả các địa phương đều không đồng ý bởi họ cho rằng chỉ số phát triển của họ vẫn tăng bình thường. Các địa phương xác nhận mình vẫn tăng nhưng họ không biết thực chất, mình tăng bằng những sự tiếp tế của Chính phủ. Trong cơn mộng du như vậy của các chính quyền địa phương, chúng ta rút ngọn củi tiếp tế ra khỏi lò thì hoặc là họ sụp đổ, hoặc là họ chống lại phương án ấy. Không có được sự cảm thông chiến lược giữa các cấp lãnh đạo với nhau thì đấy chính là biểu hiện tiêu cực nhất của nhận thức hiện nay. Nó biểu hiện một trong những vấn đề ở tầng thứ ba, tức là tầng thể chế. Hiện tượng khủng hoảng kinh tế năm 2007 và năm 2008 này biểu hiện tính tới hạn của khả năng chung sống giữa các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế thị trường. Những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội tạo ra 19 tập đoàn kinh tế quốc doanh khổng lồ để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc gia. 19 tập đoàn kinh tế ấy sử dụng 70% – 80% tín dụng trong nước, 100% tài nguyên quốc gia nhưng chỉ làm ra 40% GDP. Như vậy, không những nó không có hiệu quả mà còn đốt cháy tất cả các năng lực xã hội. Bởi khi nói đến hiệu quả tức là còn có các cấp độ hoặc hơn hoặc kém, còn đây là sự tiêu diệt một cách có hiệu quả nhất các tiềm năng của xã hội. Nền kinh tế của chúng ta, kể từ khi Đổi mới, hình thành được 20 năm, nhưng trên thực tế, trừ thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á và thời gian đầu dò dẫm từng bước đi, chúng ta mới có khoảng 10 năm hình thành nền kinh tế. Nền kinh tế ấy mỏng như lớp băng đầu tiên của mùa đông nhưng chúng ta chất lên nó 19 tập đoàn kinh tế khổng lồ thì sẽ làm nền kinh tế rạn vỡ. Đây là hiện tượng rạn vỡ một nền kinh tế mong manh dưới sức nặng của những công ty quá tải.

  • Vì thế, nội dung quan trọng nhất trong việc phân tích hiện tượng kinh tế hiện nay là phân tích mâu thuẫn giữa các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội với các quy luật của nền kinh tế tự do.

Tôi chưa thấy có một cơ quan nghiên cứu nào ở trong nước đặt ra vấn đề này. Nếu không nghiên cứu nó thì chúng ta không còn nhận thức nữa và như vậy làm sao giải quyết được các vấn đề thực tế? Các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội đòi hỏi khu vực kinh tế quốc doanh phải đóng vai trò chủ đạo, tức là khu vực kinh tế quốc doanh phải là người tiên phong mở rộng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong đời sống kinh tế toàn cầu. Nhưng kết quả là 19 tập đoàn ấy trở thành những con voi ăn cỏ nhà. Đáng ra, họ phải đi ra biển lớn, họ phải kiếm tiền ở bên ngoài, họ phải làm tất cả để phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn và tạo ra những hàng hoá có chất lượng đột phá cho nền kinh tế nhưng họ không làm được. Họ kinh doanh đa ngành trên mảnh đất nghèo đói của chúng ta. Một trong những nguyên lý đặc trưng của chủ nghĩa xã hội chính là ngân hàng không độc lập. Ngân hàng nhà nước là một thành viên của nội các, đáng ra nó phải thể hiện tính trung lập về kinh tế đối với toàn bộ các cơ cấu kinh doanh của xã hội, nhưng nó lại trở thành một trong những bộ phận cấu thành cây đũa chỉ huy nền kinh tế. Nó phục vụ Chính phủ. Phục vụ Chính phủ cũng không sai nếu Chính phủ không kinh doanh, không có các công ty nhà nước. Nhưng vì có các công ty nhà nước cho nên ngân hàng nhà nước không được nâng lãi suất quá trần này, không được trả lãi dưới trần kia… Những sức ép ấy thể hiện sự tới hạn của sự chung sống giữa các quy luật thị trường tự do về kinh tế với các nguyên lý xã hội chủ nghĩa về chính trị. Nếu không phân tích và tìm lối thoát cho điểm tới hạn này thì không còn giải pháp nào hay mọi giải pháp đều không có ý nghĩa. Đấy là mấu chốt của toàn bộ vấn đề.

Hỏi: Vậy theo ông, kịch bản sẽ diễn ra như thế nào?

Trả lời: Kịch bản diễn ra là, các nhà chính trị phải ý thức được rằng đây mới là một hiện tượng kinh tế nhưng chúng ta buộc phải nhìn lại toàn bộ nền kinh tế và có giải pháp tổng thể để giải quyết mâu thuẫn này, tức là phải cải cách chính trị. Chúng ta có một hệ thống truyền thông để phản ánh cho chính phủ và xã hội biết những rủi ro tiềm ẩn ở đâu đó, nhưng chúng ta lại khoá nó, bắt nó “đi lề bên phải”. Như vậy, người ta không có thông tin để nghe, người ta không có sự thật để bàn, người ta không có tư liệu để nhận thức. Vậy làm thế nào để xã hội đủ khôn ngoan, làm thế nào để xã hội thức tỉnh được? Sự khôn ngoan của một con người, sự khôn ngoan của một xã hội là kết quả của sự tích trữ đủ lượng thông tin chính xác. Chúng ta không có thông tin chính xác mà đòi hỏi nhân dân phải biết thế nào là chứng khoán, phải đầu tư thế nào cho chính xác, đấy là biểu hiện của sự mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế tự do. Không còn không gian nào để dung hoà mâu thuẫn ấy nữa. Không thức tỉnh điều đó thì hết cuộc khủng hoảng này sẽ đến cuộc khủng hoảng khác.

Tôi có đọc Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề lạm phát mới đây, thực lòng, tôi ngạc nhiên bởi trước sự xuất hiện một cách đầy đủ, cùng một lúc của tất cả các mặt tiêu cực như thế mà chúng ta vẫn không nhận ra được những rủi ro tiềm ẩn như vậy. Chúng ta giải thích là do ở Mỹ, đồng đô la mất giá nhưng phải nhận thấy rằng các tập đoàn kinh tế của chúng ta đã làm gì?

  • Thứ nhất là bán khoáng sản Việt Nam.
  • Thứ hai là bán quỹ đất Việt Nam.
  • Thứ ba là bán sức lao động rẻ mạt của người Việt Nam.
  • Thứ tư là bán các thành tựu chính trị đã có trong lịch sử được tạo ra bởi sự sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tóm lại, chúng ta xây dựng các tập đoàn kinh tế công nghiệp toàn diện nhưng kinh doanh chủ yếu trên “chiếu bạc”.

Hỏi: Ở chúng ta có tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) học theo mô hình của Singapore. Nhưng ở Singapore, họ giữ vốn của người dân bằng cách đi kinh doanh ở nước ngoài, và một quan chức không bao giờ được ngồi trong hội đồng quản lý công ty mà đấy phải tuyệt đối là các chuyên gia kinh tế…

Trả lời: Còn ở Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tài chính là Chủ tịch Hội đồng quản trị của Tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước, Nhà nước làm trọng tài. Nếu công ty có vốn nhà nước cứu được thị trường chứng khoán, Nhà nước vui mừng thì rõ ràng, Nhà nước giống như vị trọng tài tự đá bóng vào lưới. Hiện tượng chúng ta cứu thị trường chứng khoán giống như việc tàu đã chìm rồi mà những người trên đó còn thắt dây an toàn. Đấy chính là những biểu hiện của mâu thuẫn giữa các nguyên lý chính trị của chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế thị trường. Vì thế, phải xây dựng một lộ trình cải cách chính trị. Không có cách gì ngoài cải cách chính trị. Tôi là người vô cùng yêu mến sự yên ổn nên tôi mới nói điều ấy. Chính phủ phải đi ra khỏi quá trình kinh doanh. Không có các tập đoàn nhà nước, hoặc nếu có các tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước thì địa vị của nó phải rất bình đẳng với các công ty thuộc các khu vực kinh tế khác.

Tôi rất tiếc là các cơ quan nghiên cứu chính thống của nhà nước, từ triết học cho đến chính trị đều không nghiên cứu về điểm hợp lý của sự chung sống hay triết học hoá ranh giới giữa phát triển và khủng hoảng, giữa phát triển và phát triển ổn định. Những nội dung ấy đều là vấn đề triết học. Chính việc hạn chế báo chí lên tiếng về vấn đề xây dựng xã hội dân sự, xây dựng nền dân chủ và khẳng định tất cả các quyền cơ bản của một xã hội đã ngăn cản xã hội thức tỉnh nguy cơ sụp đổ. Đất nước của chúng ta với gần 100 triệu dân và với một tiềm năng phát triển rất lớn, nhưng chúng ta vẫn nghèo đói, chúng ta vẫn kém hiểu biết. Tôi đã viết một số bài về cải cách giáo dục, theo tôi, trình độ phát triển của xã hội đến mức nào thì sẽ có nền giáo dục ở mức ấy. Chúng ta không thể xây dựng được một nền giáo dục đẳng cấp quốc tế trong điều kiện chúng ta đang đứng ở thứ 150 hay 170 trong tổng số hơn 190 quốc gia. Đấy là ảo tưởng. Các trường Đại học như Havard, Oxford, Cambridge hay Yale là những đẳng cấp đặc biệt và đấy là sự thèm muốn của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.

Còn một hiện tượng nữa cũng thể hiện đặc trưng của những mâu thuẫn của những chính sách, đó là không tôn trọng nhân dân. Nhiều chính sách của chúng ta không quan tâm đến quyền lợi và cuộc sống của người dân, từ cấm xe ba bánh, cấm xe tự chế đến cấm hàng rong…

Trong khi xã hội chưa đủ điều kiện để sống tử tế thì chúng ta buộc phải để những cuộc sống ấy tồn tại. Nhưng chúng ta lại muốn xoá đi những hình ảnh ấy để hy vọng tìm thấy sự đẹp mắt theo ý mình, đấy là một biểu hiện phi nhân dân. Trong khi chúng ta đang phải đối đầu với khủng hoảng và không biết nó còn kéo dài bao lâu, với đồng lương thấp kém như hiện nay, chúng ta lại bàn đến chuyện sẽ hợp đồng hoá có thời hạn toàn bộ các công chức nhà nước từ cấp Vụ trở xuống. Nhưng nếu không còn viên chức nhà nước thì bộ máy nhà nước sẽ như thế nào? Nó sẽ càng thúc đẩy những hành vi tham nhũng, người ta sẽ tham nhũng như một kẻ không còn hương thơm nào của nhà nước dành cho họ nữa. Chính sách về chế độ nghỉ hưu của chúng ta cũng có những điểm bất hợp lý, tất cả mọi người, từ các quan chức cho đến công chức, kể cả các nhà khoa học, 60 tuổi đều về hưu. Đối với những người làm chuyên môn hay làm chính trị, 60 tuổi mới bắt đầu đủ chín để làm việc. Rất nhiều nhà ngoại giao, đại sứ hỏi tôi về chuyện này, tôi nói rằng người Việt Nam có một thói quen là không thích ăn quả chín. Trong khi không tận dụng được sự chín chắn khôn ngoan của những người 60 tuổi thì họ lại làm mất nhiệt tình của những người mới vào. Đấy là một sự nhầm lẫn chiến lược, hay có thể nói là sự nhầm lẫn gây thương tổn cho hệ thống chính trị.

Không chỉ tôi mà nhiều nhân vật quan trọng hay đã từng quan trọng ở đất nước mình cũng đau khổ trước những tình trạng như vậy. Tôi có những buổi tiếp xúc với một vài người trong số họ, khi nghe tôi nói những lời như thế này, họ im lặng, không phản đối, không nói ra nhưng nhìn khuôn mặt rầu rầu của họ, tôi hiểu.

Hỏi: Khi nghe ông phân tích, tôi thấy dường như ông vẫn hình dung về chính phủ như là người đại diện cho quốc gia, dân tộc, và nhân dân về bản chất. Nhưng trên thực tế, rất khó đạt được điều đó…?

Trả lời: Không, tôi không nhầm lẫn khi nói như vậy. Tất cả các chính phủ, tôi không nói riêng một quan chức hay một chính phủ cụ thể nào, đều phải đại diện cho lợi ích của xã hội và phải phấn đấu để có một chính phủ như vậy. Nếu không thì không phải là chính phủ. Nhiều người nói rằng không có tổng công trình sư cho quốc gia này và đôi khi, chính trị bị điều khiển bởi các nhóm lợi ích. Tôi cho rằng đấy là một thực tế cần phải lên án. Nhưng vấn đề không phải là chúng ta chỉ lên án mà chúng ta phải phấn đấu vì một sự thực khác tốt đẹp hơn. Đấy chính là thái độ cầu thị. Đất nước của chúng ta hoàn toàn có thể tốt đẹp hơn được. Ngay cả những người đang mắc sai lầm bây giờ cũng có thể tốt đẹp được. Tôi vẫn kiên nhẫn trong việc là cần phải cải cách.


Hỏi: Cải cách là rất đúng nhưng cải cách với mục tiêu nào và chương trình nào? Tôi cũng có dịp tiếp xúc với một số quan chức. Tôi thấy rằng chưa có ai sử dụng đúng cương vị của mình để nói lên những điều mà họ nhận thức được, không ai thà hét lên một tiếng rồi bị bật ra khỏi cái ghế của mình.

Trả lời: Lịch sử chính trị thế giới chỉ ra rằng, những tiếng hét ấy hiếm trên toàn thế giới chứ không chỉ riêng Việt Nam, và những người có đủ trí tuệ là những người hét đúng lúc. Khi người ta chưa hét thì chúng ta đừng cho rằng không có ai hét. Họ sẽ hét. Gần đây, có những bài phân tích cực kỳ sắc sảo về các nguy cơ trong nước. Tuy nhiên, nhược điểm của những bài viết đó là làm cho mọi người có cảm giác là có một thế lực quốc tế nào đó đang có kế hoạch thao túng và thôn tính đất nước. Mà trong nhận thức của người Việt Nam, một dân tộc bài ngoại, thì những bài như vậy cổ vũ một thái độ cảnh giác không có lợi cho giai đoạn sau khủng hoảng. Tôi cho rằng sự phân tích vi mô của những bài viết đó là tốt, nhưng nó vẫn còn lệch và chưa thấu đáo. Bởi vì một dân tộc không bao giờ chịu sụp đổ, bao giờ các yếu tố mang chất lượng đột phá cũng xuất hiện vào lúc nào đó. Giai đoạn này là giai đoạn bắt đầu hình thành các nguy cơ của cuộc cách mạng. Cho nên, yếu tố chủ động bây giờ là đừng để xảy ra cách mạng. Mấy năm trước, tôi có viết bài “Lãnh đạo phi cách mạng”, tôi nghiên cứu những vấn đề như thế để tìm ra giải pháp cho đời sống xã hội. Vì thế, tôi không dừng lại ở tầng phân tích thị trường chứng khoán. Tôi cho rằng, nếu không giải quyết mâu thuẫn giữa Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường thì tất cả mọi nghiên cứu còn lại đều không có ý nghĩa.

Hỏi: Tôi thấy rằng trước những tình trạng như vậy thì rất may là dường như, lòng tin của nhân dân vẫn còn.

Trả lời: Lòng tin từ lâu đã được thay thế bằng một đại lượng phổ biến, đó là sự sợ hãi. Chúng ta đang nhầm lẫn giữa sự còn lại của lòng tin với sự sợ hãi. Sự sợ hãi chiếm tỷ lệ khống chế trong toàn bộ cơ cấu tinh thần của xã hội đối với nhà nước. Nhưng sợ hãi không phải là một tâm lý phổ biến, không phải là một tâm lý tích cực. Sợ hãi là một tâm lý làm thui chột sự phát triển. Sự sợ hãi của người dân không đem lại sự ổn định của thể chế mà ngược lại, nó còn làm mất đi năng lực phát triển và cảm hứng phát triển.

Chúng ta nên nhớ rằng sự sợ hãi không phải là đường cong liên tục, đến lúc nào đó sẽ có những bước nhảy, bước nhảy ấy là kết quả cuộc đột kích của các yếu tố vào chuỗi sợ hãi, và chính bước nhảy của nỗi sợ ấy mới tạo ra cực đoan. Trạng thái nổi giận của nỗi sợ tạo ra tình trạng phá hoại. Chúng ta thấy rằng, một vài người vì nóng giận, vì sốt ruột mà rất gay gắt khi chỉ trích chính phủ. Nhưng phải nói rằng, việc mặc cái áo khoác thuật ngữ cho một sự nổi giận có chất lượng bản năng chứng tỏ những người đó không phải là những người có trí tuệ thật. Con người không có trí tuệ thật bao giờ cũng yêu mến nhiều hơn mức cần thiết và cũng nổi giận nhiều hơn mức cần thiết. Cho nên chúng ta cần khách quan, tỉnh táo khi phân tích tất cả các hiện tượng, và chừng mực, phải chăng trong sự đánh giá. Tôi đã nói rằng, không nên nói to bởi không có không gian, không có bức tường chính trị nào tự giãn ra bởi sự nói to của bất kỳ ai. Các không gian chính trị sẽ tự giãn ra cùng với sự phát triển của trí tuệ con người và nhân dân. Cho nên, thay vì cung cấp lời khuyên cho các nhà lãnh đạo thì tốt nhất, chúng ta cung cấp kiến thức cho người dân để họ dần dần thức tỉnh. Bởi nhà nước thường mắc căn bệnh tự mãn, như Lenin đã định nghĩa. Tự mãn là biểu hiện của sự lộng hành, xét cả về phương diện văn hoá lẫn phương diện trí tuệ. Một nhà chính trị cần phải rất khiêm tốn, nhất là trước giới trí thức, có như vậy họ mới thu xếp được thái độ vừa phải và sự cộng tác của người trí thức. Nhiều người nói rằng bây giờ khủng hoảng nhân sự, không tìm đâu ra nhân tài. Tôi rất ngạc nhiên. Vấn đề là họ tìm bằng tiêu chuẩn gì? Tôi cho rằng tiêu chuẩn phân loại trí thức thì không khó, trí thức phân loại nhau dễ lắm, nhìn nhau là biết. Nhưng để phân loại trí thức thì phải có một đội ngũ có tiêu chuẩn đi phân loại trí thức, mà xây dựng đội ngũ đi phân loại ấy rất khó. Xây dựng một tiêu chuẩn phân loại trí thức không hẳn là việc đáng làm, vì bản thân trí thức không cần ai phân loại họ.

Tôi đã từng nói với Đại sứ Hoa Kỳ rằng: “Với tư cách là một người bình thường, là một thương nhân, tôi không có nhu cầu cá nhân để gặp ông, nhưng với tư cách là một người băn khoăn về đất nước của mình, tôi gặp ông để nói chuyện. Tôi nghĩ, phương thuốc cho Việt Nam nếu không có “vị Hoa Kỳ” thì không chữa được bất kỳ bệnh gì, bởi chúng tôi ở bên cạnh nước Trung Hoa, mặt đất của chúng tôi nghiêng về phía Bắc”.


Hỏi: Không tìm ra nhân tài phải chăng vì hệ thống đó không có sức hút nhân tài và nền chính trị ấy đang lạc hậu về mặt sử dụng nguồn nhân lực?

Trả lời: Sự lạc hậu về chính trị cũng là một biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản giữa quan hệ chính trị Xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tự do. Thực ra, tất cả các vấn đề về kinh tế Việt Nam như khủng hoảng, lạm phát không hề khó giải quyết hay khó khắc phục. Hay cái khó không nằm ở đấy mà nằm ở các khuyết tật về chính trị. Các khuyết tật về chính trị là nguồn gốc của tất cả những yếu tố tạo ra tình trạng như hiện nay. Thị trường chứng khoán là nơi dung dưỡng các nhóm đầu cơ. Tập đoàn kinh tế là sự ảo tưởng về vai trò của doanh nghiệp nhà nước và vai trò tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Nó được lợi dụng như ngôi nhà của những kẻ đầu cơ cả về chính trị lẫn kinh tế.

Một số nhà lãnh đạo của chúng ta, với sự nhạy cảm một cách bản năng, linh cảm thấy điều ấy, nhưng họ không gọi tên được. Vì thế, cần đến những phân tích, nghiên cứu một cách khoa học hơn. Đây là thời điểm mà báo chí phải tập trung nghiên cứu để làm cho trang web của mình, cho tờ báo của mình có chất lượng. Đã đến lúc phải loại đi những bài viết thương nhớ một nền giáo dục đã có, những kinh nghiệm riêng của một vài cá nhân, ở đó không có sáng tạo, không có phát hiện mới.

Hỏi: Đúng như ý kiến của ông, tôi cũng cho rằng đây là thời điểm để chia sẻ tri thức.

Trả lời: Phải nhắc lại rằng, tất cả những sơ suất của các nhà lãnh đạo của chúng ta không đáng để lên án. Vấn đề chính là chúng ta giới thiệu cho xã hội những ý nghĩ, những giải pháp của mình. Chúng ta phải chiếu cố đến tính không được chuẩn bị của xã hội Việt Nam. Ví dụ, nhà xuất bản Tri thức có xuất bản một loạt các cuốn sách hay của nhân loại, nhưng xã hội chúng ta tiếp nhận đến đâu? Đa số người Việt không đủ kiến thức về thuật ngữ để hiểu cách viết của những học giả nổi tiếng của nước ngoài. Đọc Hayek chẳng hạn, cả nước Việt Nam này, số người hiểu Hayek chỉ đếm trên đầu ngón tay. Dịch giả Bùi Văn Nam Sơn dịch toàn tập bộ ba về Phê Phán lý tính của Kant nhưng phải nói thật rằng, trong hàng triệu người, nếu may mắn có một người hiểu được thì sự hiểu ấy cũng không toàn diện. Tôi không thích những người khoe chữ, tôi thích một hướng đi không tầm thường mà cũng không bỗ bã kiểu bình dân. Tôi vẫn thích sự chau chuốt và khi đọc Trần Dần, tôi rất thích. Đấy là người nghiền ngẫm, trăn trở và có tinh thần trách nhiệm trên từng nét một của con chữ. Còn những dịch giả thời nay, khi dịch các tác phẩm sang tiếng Việt, họ đã quên mất việc phải chiếu cố đến nền học vấn cũng như phông tri thức của người Việt. Dân tộc chúng ta là một dân tộc chưa bao giờ được chuẩn bị đủ cơ sở để có thể hiểu được một cách sơ lược nhất chứ chưa nói đến hiểu đầy đủ những hệ thống các tín hiệu có tính chất thuật ngữ như vậy. Không được chơi chữ với người dân, phải biết trân trọng họ. Nghệ thuật hay giá trị của nghệ thuật chính là chiếu cố một cách đầy đủ đến năng lực tiếp nhận của con người.

Posted in Economic, Money, Stock | Thẻ: | 2 Comments »

Vn-Index lên 590-620, bầy thú sẽ thịt cừu

Posted by BEAR trên Tháng Sáu 10, 2009

Vn-Index lên 590-620, bầy thú sẽ thịt cừu

Dự đoán trong tuần này, thị trường chứng khoán tiếp tục lên, có điều chỉnh nhẹ ở ngày thứ 5 hoặc thứ 6. Sang đầu tuần sau sẽ hình thành 2 xu hướng, hoặc lên mạnh hoặc tiếp tục xả hàng. (Tran Dinh Kham)
>Ý kiến bạn đọc (phần 1)

Năm 2007, khi mà tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức chóng mặt thì chứng khoán cũng lên ở mức chóng mặt. Nhà đầu tư đang kỳ vọng vào lợi nhuận vô hình và rồi bụp, nền kinh tế xì hơi cũng chóng mặt do lạm phát, an ninh lương thực, năng lượng và quản lý rủi ro không còn dự đoán được.

Đó là quá khứ. Sau thời kỳ tiền của đám đông chảy vào túi một số nhà đầu tư chuyên nghiệp, lượng tiền Việt Nam đồng được đưa vào mua đôla, đẩy giá đôla lên cao chóng mặt. Một lượng tiền lớn tiếp tục đổ từ túi người này sang túi người khác vì bà con tranh nhau bán đôla để gửi VNĐ (do thời kỳ đó lãi suất huy động là không tưởng).

Tiếp theo, khi mà lượng tiền của các chú cừu cạn kiệt cũng là lúc Nhà nước triển khai chính sách kích cầu, việc vay tiền quá thuận lợi và ưu đãi. Một số tiền đã chảy vào một số công ty để đảo nợ, số khác chảy qua thị trường chứng khoán để hòng kiếm lời khi mà tình hình kinh tế mới bước đầu đứng dậy để đi.

Bầy thú điện tử nhân một vài tin tốt bắt đầu liên kết tạo tâm lý tốt cho đám đông vừa trải qua cơn bão. Lập tức tất cả ào ào vào thị trường để hòng thu lợi. Bầy thú điện tử sẽ thịt luôn? Không bọn chúng sẽ nuôi bày cừu kia lớn bằng lòng tham và sự kỳ vọng đến ảo tưởng. Con cừu nào khôn ngoan biết chọn thời điểm mà tách đàn thì OK, con nào không khôn ngoan thì sẽ phải đến lò mổ để thịt.

Cũng cần phân tích thêm, những chú cừu đang ra sức phi vào đám cỏ đã đặt bẫy, đẩy thị trường lên cao chóng mặt. Khi mà cái ngưỡng quá cao như thế, bày thú bắt đầu tuồn hàng từ từ, thịt từng chú một đến khi thị trường đảo chiều thì chỉ còn những chú cừu ngơ ngác với nhau trong lò mổ. Bầy thú đứng ngoài cười khà khà để bầy cừu dẫm đạp lên nhau mà chạy thoát thân, thị trường đi xuống. Và khi bầy cừu tiếp tục chơi chứng khoán với cái kiểu tâm lý đám đông thế này thì chỉ có một số chú cừu thành thú điện tử, còn đám đông lại bước vào chu kỳ mới.

Nhìn về lực cầu thị trường hiện tại có thể thấy nhu cầu mua còn rất lớn, đồng thời nhà đầu tư đang ghìm hàng còn rất nhiều. Nó như là 2 thái cực đối lập, và khi đã xả rồi thì số cầm tiền sẽ không tham chiến và số xả chậm chân, không đúng thời điểm sẽ là số thịt cho bữa nhậu này.

Dự đoán trong tuần này, thị trường chứng khoán tiếp tục lên, có điều chỉnh nhẹ ở ngày thứ 5 hoặc thứ 6. Sang đầu tuần sau sẽ hình thành 2 xu hướng, hoặc lên mạnh hoặc tiếp tục xả hàng.

Theo thiển ý của tôi, có lẽ bầy thú đang chờ VNI lên 590 – 620 thì bắt đầu thịt cừu.

Posted in Stock | Leave a Comment »

Draft 10-01-2009

Posted by BEAR trên Tháng Một 10, 2009

Kinh tế:

VN không đạt mục tiêu số hộ nghèo

Bộ Lao động Thương binh Xã hội cho hay tỷ lệ số hộ nghèo ở Việt Nam cuối 2008 là 13%, không đạt mục tiêu 12%, cho dù vẫn chưa áp dụng chuẩn nghèo mới.

Bộ này giải thích trên website của Chính phủ Việt Nam đây là “do hậu quả của thiên tai, bão lũ và lạm phát”.

Hiện người có thu nhập dưới 200.000 đồng/tháng ở nông thôn và 260.000 đồng ở đô thị thì bị liệt vào diện nghèo.

Tuy nhiên, nếu tính theo chuẩn nghèo mới đang được đề xuất có bao gồm tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ người nghèo sẽ lên tới 17%; hay 3,3 triệu hộ.

Chuẩn nghèo mới được giải thích là thu nhập dưới 300.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và 390.000 đồng ở đô thị.

Cũng có đánh giá nói rằng nếu theo chuẩn quốc tế thì Việt Nam có gần nửa dân số thuộc diện nghèo.

Khi chỉ còn chưa đầy nửa tháng nữa là Tết Nguyên đán, mối lo ngại về thu nhập, công ăn việc làm của người lao động lại tăng lên gấp bội.

Không sắm Tết

Không khí mua sắm những ngày trước Tết tại TP Hồ Chí Minh năm nay không sôi động bằng những năm trước.

Một trong các lý do chính là tình trạng kinh tế suy giảm.

Anh Cao Thanh Sơn, 44 tuổi, làm nghề chạy xe ôm tại trung tâm TP HCM, nói rằng thu nhập của anh năm nay giảm hơn nhiều so với năm ngoái.

“Thời gian giáp Tết này, còn giảm hơn nữa. So với trước, chắc cũng phải giảm tới 50%. Rất khó khăn đối với người lao động như tôi.”

Anh Sơn tâm sự năm nay chắc phải tới 28 Tết anh mới về quê ở Khánh Hòa ăn Tết, vài ngày rồi lại lên thành phố tiếp tục đi làm.

Vợ chồng tôi chỉ ước ao có một ngôi nhà nhỏ của riêng mình, nhưng chắc chắn là chẳng bao giờ có nổi.
Chị Nguyễn Thị Mai Thảo

Trong khi đó, chị Nguyễn Thị Mai Thảo, sống ở quận 8, cho hay năm nay gia đình chị không về quê ăn Tết như mọi năm.

Chị Thảo, 41 tuổi, làm nghề mát xa dạo, trong khi chồng chị làm công nhân in. Nhà có hai đứa con trai đang tuổi đi học, chi phí ngày càng nhiều.

“Mấy năm còn dư ít tiền, năm nay thấy khó hơn năm ngoái. Không tiết kiệm được nên không nghĩ tới chuyện về quê nữa.”

Cả hai vợ chồng một tháng thu nhập độ ba triệu đồng thì tiền thuê nhà đã mất triệu rưởi. Còn tiền học của hai đứa con, khiến cho vợ chồng chị sống ngày nào biết ngày đó”.

“Vợ chồng tôi chỉ ước ao có một ngôi nhà nhỏ của riêng mình, nhưng chắc chắn là chẳng bao giờ có nổi.”

Lương thưởng

Có thể nói, người nghèo, thu nhập bấp bênh, lo lắng nhất là thời gian cận Tết.

Lương thưởng thấp khiến nhiều công nhân tại các khu công nghiệp không thể nghĩ tới chuyện mua sắm hay về thăm gia đình.

Các công ty, nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu, đều ghi nhận một năm 2008 đầy khó khăn. Nhiều doanh nghiệp đưa ra giải pháp tình thế là giảm lương thưởng, giảm giờ làm và thậm chí sa thải công nhân.

Từ cuối năm ngoái tới thời điểm hiện tại, đã hàng chục ngàn công nhân mất việc làm.

HSBC dự báo chứng khoán Việt Nam

Trong báo cáo Vietnam Monitor ra tháng 1/2009, Tập đoàn Ngân hàng Hồng Kông – Thượng Hải (HSBC) cho rằng, 2009 sẽ tiếp tục là một năm khó khăn nữa đối với thị trường chứng khoán khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng.

Dự báo, mốc VN-Index cuối năm nay sẽ là 300 điểm.

2008, thị trường Việt Nam “tệ” nhất châu Á

HSBC cho rằng, thị trường chứng khoán Việt Nam đang ngày càng trở nên nhỏ bé và không còn được giới đầu tư nước ngoài quan tâm nhiều như trước đây.

Năm 2008, tính theo USD, VN-Index sụt mất 69%, mức giảm tồi tệ nhất trong số các thị trường chứng khoán ở châu Á. Chỉ số MSCI của thị trường chứng khoán châu Á, trừ Nhật Bản, chỉ giảm có 53% trong năm qua.

Trong 6 tuần cuối năm, các thị trường thuộc chỉ số MSCI châu Á – trừ Nhật – phục hồi 23%, trong khi đó, thị trường chứng khoán Việt Nam giảm 6%

Các chuyên gia thực hiện báo cáo nhận định, thị trường chứng khoán Việt Nam đã ra khỏi tầm ngắm của nhiều nhà đầu tư tổ chức của nước ngoài. Hiện không có một doanh nghiệp nào niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam có giá trị vốn hóa trên 1 tỷ USD mà các nhà đầu tư nước ngoài còn có thể mua thêm cổ phiếu.

Trên thực tế, chỉ có 5 công ty niêm yết có giá trị vốn hóa từ 500 triệu USD trở lên là vẫn còn “room” cho các nhà đầu tư ngoại rót vốn. Tuy nhiên, những cổ phiếu này chỉ phù hợp với những quỹ đầu tư quy mô nhỏ.

Với những phân tích trên, HSBC cho rằng, sự chú ý của giới đầu tư nước ngoài đối với thị trường chứng khoán Việt Nam đã giảm mạnh trong mấy tháng gần đây.

Tính minh bạch hạn chế trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, cũng như những hạn chế trong chính sách vĩ mô của Việt Nam năm 2008 khiến giới đầu tư nghi ngờ về tính hấp dẫn dài hạn của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Mặt khác, việc Việt Nam phụ thuộc nhiều vào vốn FDI và hoạt động xuất khẩu sẽ tạo nhiều áp lực cho nền kinh tế trong năm 2009. Báo cáo nhận xét, tinh thần doanh nghiệp và sức hấp dẫn về dân số của Việt Nam sẽ giúp thị trường chứng khoán Việt Nam tới một lúc nào đó sẽ hấp dẫn trở lại, nhưng chưa phải là trong một vài quý tới đây

5 yếu tố cần theo dõi

Thứ nhất là vấn đề lợi nhuận doanh nghiệp. Một vấn đề lớn của thị trường chứng khoán Việt Nam là báo cáo tài chính kém minh bạch.

Thứ hai là các chương trình cổ phần hóa. Năm ngoái, từ sau vụ cổ phần hóa Vietcombank vào cuối năm 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam gần như vắng bóng những vụ cổ phần hóa lớn.

Thứ ba là lãi suất ngân hàng có giảm mạnh thêm nữa hay không?Mặc dù lãi suất cơ bản VND thời gian qua liên tục được giảm mạnh, nhưng lãi suất trên thị trường vẫn còn ở mức khá cao.Chính phủ vẫn đề cập thường xuyên tới những rủi ro lạm phát. (Tuy nhiên, ở phần dự báo vĩ mô, HSBC cho rằng, lạm phát ở Việt Nam sẽ giảm về mức 5% vào giữa năm nay, sau đó tăng dần trở lại. Báo cáo cũng cho rằng, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm nay có thể chỉ đạt 5,4%, thấp nhất trong 10 năm).

Lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường ngân hàng đang là 5%, còn lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm là 10%. Báo cáo nhận định, thực trạng này khiến thị trường chứng khoán phần nào giảm bớt tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước.

Thêm vào đó, những lo ngại về sự mất giá của VND và sự thiếu USD ở Việt Nam cũng khiến giới đầu tư nước ngoài e dè.

Thứ tư, giá cổ phiếu có rẻ hơn hay không?Với sự thiếu minh bạch trong vấn đề lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam, có lẽ các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đợi hệ số P/E của thị trường Việt Nam giảm sâu mới đầu tư trở lại vào thị trường này

Và thứ năm, liệu cơ chế đối với các nhà đầu tư trong nước có hấp dẫn hơn hay không? Một phần lý do dẫn tới sự ảm đạm của thị trường chứng khoán Việt Nam trong những tháng cuối năm 2008 là việc sẽ áp thuế thu nhập từ chứng khoán đối với các nhà đầu tư trong nước.

Thép: Đừng mắc bẫy công nghệ bẩn

Bình luận về việc ngành thép vỡ quy hoạch, Viện trưởng Viện Chiến lược Công nghiệp Phan Đăng Tuất cho rằng đó là hậu quả tất yếu của lối tư duy phong trào đã ăn sâu.

Ông nhìn nhận thế nào về việc có tới 32 dự án thép ngoài quy hoạch?
– Theo quy hoạch ngành thép đến năm 2010, công suất đạt khoảng 10 – 11 triệu tấn, năm 2020 sẽ đạt trên 20 triệu tấn, như vậy là vừa đẹp với nhu cầu nền kinh tế. Nhưng khi cộng thêm những dự án “vỡ kế hoạch” thì công suất dự kiến sẽ lên đến 60 triệu tấn.

60 triệu tấn là con số quá nhiều. Dĩ nhiên có ý kiến cho rằng Việt Nam có thể xuất khẩu thép. Có điều mục tiêu trở thành nước xuất khẩu thép liệu có đáng để đánh đổi bằng việc đưa công nghệ bẩn vào Việt Nam hay không?

Tôi nói thế vì chúng ta đều biết hiệu quả và sức hấp dẫn từ giá trị gia tăng của ngành thép đã “hết thời” từ thế kỷ 20. Công nghiệp thép ngày nay là cái bẫy mà các nước phát triển đang dồn đẩy sang các nước đi sau vì thép điển hình cho thứ công nghệ gây bẩn môi trường và hiệu quả kinh tế thấp.

Như vậy, ngành thép không những không tạo ra giá trị gia tăng đáng kể mà còn ảnh hưởng tới môi trường sống của thế hệ sau.

Tôi biết nhiều công nhân ngành thép mới 45 tuổi mà đã còm nhom gầy yếu, mất sức lao động trở nên không nghề nghiệp, không tương lai, thành gánh nặng cho xã hội đủ thấy sức tàn phá của ngành này.

Tiếc là nhiều người vẫn còn nhận thức mơ hồ lắm, thậm chí cho rằng thép là thứ công nghiệp cao siêu rồi đặt tham vọng xuất khẩu thép này nọ.
– Ông nghĩ ta nên rút ra bài học gì từ việc ngành thép vỡ quy hoạch?

– Bài học này có thể tham khảo từ nhiều nước. Bài học của họ rất đau đớn và họ chuyển giao sang mình còn ta cứ “hồn nhiên” chịu đựng.
Vì những lý do đó đã vài năm nay chúng tôi cảnh báo rất nhiều trên nhiều diễn đàn công khai nhưng dường như không có tác dụng. Chúng tôi cảm thấy bất lực trước những ý muốn chủ quan của những người nào đó.


Cứ như lặp lại câu chuyện của xi măng lò đứng, đánh bắt xa bờ, mía đường.. Hình như tính phong trào nó ăn sâu vào người mình mất rồi.

Thủ tướng: Thành lập quỹ bình ổn giá xăng dầu

Sẽ giãn nộp thuế TNCN đến tháng 5/2009

Chuyên gia tài chánh Nguyễn Trần Bạt nhận xét về gói kích cầu trị giá 6 tỷ đô la

Mặc Lâm: Còn khả năng hấp thụ nguồn vốn này từ khu vực tư nhân có khá hơn hay không, thưa ông?

Ông Nguyễn Trần Bạt: Khu vực tư nhân nói vậy thôi chứ còn cũng không có lực lượng nào dám đứng ra nhận tiền, dám đưa ra các cam kết là sẽ đóng góp một cách tích cực. Về tổng thể tôi nói rằng kinh tế Việt Nam nó không có đủ các yếu tố chuyên nghiệp để sử dụng các biện pháp chuyên nghiệp như kích cầu để mà khắc phục hậu quả của khủng hoảng kinh tế.

Mặc Lâm: Với tình hình bi quan theo nhận xét của ông như vậy thì ông có thể cho biết là nguyên nhân chủ yếu phát xuất từ đâu hay không ạ?

Ông Nguyễn Trần Bạt: Chúng tôi có một hệ thống thuế lạc hậu vẫn tiếp tục lạc hậu. Các chính sách thuế không hiệu lực trong thực tế và toàn bộ cơ cấu tiền lương trong giá thành sản phẩm ở nền sản xuất Việt Nam là rất thấp. Thứ hai nữa là chúng tôi có một hệ thống biên chế rất cồng kềnh của các cơ quan, các cơ cấu của xã hội, cho nên phải nói rằng là không dùng biện pháp tăng lương để mà kích cầu được, không dùng biện pháp gì để kích cầu được. Phải nói thật là như thế.

Coi chừng kích cầu kinh tế Trung Quốc


Ông Nguyễn Trần Bạt: Có lẽ cái kích cầu hợp lý nhất là tập trung đầu tư vào các công trình công cộng, tức là phục vụ công ích và phải tổ chức đấu thầu bình đẳng giữa các lực lượng tham gia thì may ra, may ra mới có thể có tác dụng và nó cũng chỉ kích thích việc làm thôi chứ cũng không phải là kích thích cái sức mua, phát triển các sản xuất đâu. Bởi vì phải nói thật là Việt Nam ở cạnh Trung Quốc mà Trung Quốc là cái nền kinh tế có thể nói là cái thiên đường của việc sản xuất những hàng hóa rẻ tiền và phải nói là nó rất phù hợp với sức mua cũng như là với trình độ tiêu dùng hiện nay ở các nước lạc hậu ở chung quanh Trung Quốc. Cho nên các nền kinh tế lân cận không cạnh tranh được với Trung Quốc đâu trong việc sản xuất hàng hóa tiêu dùng, và vì thế cho nên kích cầu này về tổng thể nếu mà kích cầu theo đúng nghĩa tức là tăng sức mua các hàng hóa công nghiệp thì chắc chắn cái đấy không rơi vào túi đại gia này đại gia kia ở trong nước đâu mà tôi cho là rơi vào túi cái nền kinh tế Trung Quốc, tức là mình kích cầu hộ nền kinh tế Trung Quốc

Hàng Trung Quốc sẽ tàn phá kinh tế Việt Nam?

6 Tỷ Đô La Kích Cầu và Nguy Cơ “Kích Tham Nhũng”

Tham nhũng, ăn bẩn:

Thủ tướng:Hà Tĩnh phải kiểm tra việc lợi dụng phát gạo cứu đói

Ngày 9/1, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh kiểm tra sự việc báo chí, trong đó có VietNamNet cuối năm 2008, phản ánh việc lợi dụng phát gạo cứu đói của Chính phủ để truy thu phí dân ở xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà.

Trong đợt cấp gạo cứu đói cho dân nghèo của Chính phủ trong những ngày giáp Tết, xã Thạch Bàn thuộc vào diện được ưu tiên nhất khi nhận được 90 tấn gạo. Để phát gạo cứu đói, UBND huyện Thạch Hà đã ra 1 văn bản hướng dẫn cụ thể việc phát gạo, cán bộ UBND xã phải tự thuê xe đi nhận gạo và tiến hành cứu trợ kịp thời, đúng đối tượng. Đặc biệt ưu tiên những gia đình đặc biệt khó khăn, tuyệt đối không chia bình quân.

Đói no gì cũng phát… cào bằng!

Tuy nhiên, UBND xã Thạch Bàn lại làm theo sự chỉ đạo của huyện bằng việc phát gạo theo kiểu… cào bằng! Tất cả các hộ gia đình, không kể hoàn cảnh như thế nào đều chia theo bình quân đầu người, mỗi khẩu là 23,5 cân.

Muốn nhận gạo cứu đói phải nộp đủ phí và thuế (?!)

Khi biết được tin có gạo cứu trợ, người dân đã kéo nhau đi nhận nhưng nhận được thông báo từ các trưởng thôn (tất cả có 8 thôn): “Nếu muốn nhận gạo thì phải nạp tiền 20.000đồng/tạ cho xã để hỗ trợ tiền vận chuyển”. Việc cấp phát gạo không công bằng, thu các khoản ép buộc đã khiến nhiều hộ dân bức xúc.

Ông Nguyễn Xuân Minh đã phải chạy vạy khắp nơi mới mượn được 308 nghìn về nộp thuế để được nhận gạo về cho 2 đứa cháu của mình. Ảnh: Duy Tuấn

Cái lý “vì dân” của các “ông quan” ở xã!

Sau khi nghe chúng tôi phản ánh sự việc, ông Nguyễn Văn Lượng – Chủ tịch UBND xã Thạch Bàn chống chế rằng: “Do xã nghèo, không đủ kinh phí nên mới phải thu phí của dân để vận chuyển. Lúc đầu ra mức thu 20 nghìn đồng/tạ, nhưng sau đó đã giảm xuống một nửa”.

“Hiện gạo đã phát hết không còn 1 cân, việc bắt hoàn thành thuế mới được nhận gạo thì xã không có chủ trương, các thôn làm như vậy là sai, tôi không được biết” – ông chủ tịch xã khẳng định.

Khác với những gì ông Lượng nói, các thôn đều thu 20 nghìn trên 1 tạ. Đặc biệt, tại thôn Tiền Phong (thôn 8), hiện đang còn hơn 5 tạ gạo chưa được phát. Trong quá trình đó thì Bí thư và thôn trưởng đã “tranh thủ” bán mất 3 tạ, được 1,5 triệu đồng và được Bí thư xóm giữ. Còn gần 2 tạ thì đang nằm “chờ mốc” trong nhà văn hóa thôn 8.

Giải thích cho việc chia gạo theo kiểu cào bằng, các vị “quan” từ thôn đến xã đều cho rằng: “Chia như thế để khỏi gây thắc mắc trong dân. Tất cả cũng vì dân”.

Tất cả số tiền thu của dân trong 90 tấn gạo là hơn 18 triệu đồng, nhưng họ chỉ nộp về xã 9,1 triệu. Toàn bộ chi phí cho việc vận chuyển gạo này chỉ hết hơn 5 triệu, còn lại hơn 3 triệu đồng hiện đang nằm ở xã. Ngoài ra còn khoảng 9 triệu đang nằm ở các thôn.

Bắt quả tang cán bộ thuế nhận hối lộ 60 triệu đồng

Diễn biến mới liên quan vụ PCI

Nhật Bản đồng ý cho giải ngân trở lại một số dự án liên quan Công ty tư vấn quốc tế Thái Bình Dương (PCI, Nhật Bản), nhưng nói có thể ngừng nếu có nghi vấn tham nhũng.

Trong sáu dự án được nhận tiền trở lại, có dự án môi trường nước TP.HCM giai đoạn 1 và dự án môi trường nước TP.HCM giai đoạn 2 (do UBND TP. HCM làm chủ đầu tư); dự án phát triển hạ tầng quy mô nhỏ giảm nghèo; dự án xây dựng cầu Thanh Trì, dự án cầu trên quốc lộ 1 giai đoạn 3 và dự án nâng cao an toàn cầu đường sắt tuyến Hà Nội – TP.HCM.

Công hàm của Sứ quán Nhật tại Hà Nội nói sau này nếu có nghi vấn tham nhũng, các dự án trên có thể bị ngừng thanh toán trở lại.

‘Muốn thấy hành động’

Ngày 8.1, Đại sứ Nhật tại Việt Nam, Mitsuo Sakaba, có buổi tiếp xúc với báo chí, cho biết hai nước đang cố gắng hoàn thiện quy trình cung cấp viện trợ ODA mới.

Theo giới quan sát, phía Nhật đến giờ tỏ ra cầm chừng, không đưa ra trả lời dứt khoát mà chỉ nói Nhật chờ hành động của Việt Nam trong vụ điều tra PCI.

Nó chứng tỏ Nhật Bản vẫn đang duy trì áp lực đòi Việt Nam giải quyết rốt ráo các cáo buộc tham nhũng.

Đại sứ Nhật cho biết trong tháng này, tòa án ở Tokyo sẽ ra phán quyết đối với những thành viên của công ty PCI đã bị bắt.

Ám chỉ ông Huỳnh Ngọc Sỹ, ông nói Nhật “muốn thấy hành động của phía Việt Nam đưa ra đối với quan chức này”.

Trong tháng Hai, Hoàng thái tử Nhật Bản sẽ thăm Việt Nam.

Một số người nhận định có thể nhân dịp này Nhật Bản sẽ nối lại ODA cho Việt Nam.

Lao động:

Đình công năm sau cao hơn năm trước

Hãng tin AFP dẫn lời một viên chức giấu tên của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, nói đã có 762 vụ đình công xảy ra trong năm 2008, chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất dệt may và giày dép.

Con số này tăng mạnh so với 541 vụ đình công của năm 2007, nằm trong xu hướng gia tăng các vụ bất ổn lao động những năm gần đây.

Trước đó, báo Lao Động ước tính trong năm 2008 có khoảng 775 vụ đình công, chủ yếu xảy ra tại miền Nam Việt Nam.

Bản tin của AFP dẫn lời viên chức giấu tên: “Lạm phát cao làm cuộc sống của người lao động thu nhập thấp thêm khó khăn. Các vụ đình công chủ yếu là đòi lương và phúc lợi tốt hơn.”

Sau nhiều năm tăng trưởng mạnh, nền kinh tế đã chậm lại với mức tăng trưởng 6.23% trong năm 2008.

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, mức tăng trưởng năm nay có thể khoảng 5%.

AFP cũng dẫn số liệu của Bộ Lao động ước tính trong năm nay, hơn 150.000 công nhân Việt Nam có thể mất việc.

Gần đây, trả lời BBC, tiến sĩ Phan An từ Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ nhận định các cuộc đình công chủ yếu là “do tranh chấp về lợi ích giữa công nhân và chủ lao động, cũng như va chạm về văn hóa”.

Tiến sĩ An cho rằng không nên hạn chế người lao động nói lên tiếng nói chừng vào “các cuộc đình công vẫn diễn ra đúng pháp luật, không tác động xấu tới kinh tế và ảnh hưởng đầu tư của nước ngoài tới Việt Nam”.

Theo một cuộc nghiên cứu kéo dài hai năm tại các khu công nghiệp lớn ở TP HCM, Bình Dương và Đồng Nai mới được công bố, các cuộc đình công hiện nay ở miền Nam đang “ngày càng tăng về số lượng, quy mô và tính chất”.

Trong bối cảnh kinh tế có khăn, thời gian qua đã có nhiều cuộc đình công đòi tăng lương của công nhân tại các khu công nghiệp, thậm chí dẫn tới xô xát lớn.

Hơn 1.000 công nhân Quảng Ngãi mất việc làm

Hơn 8.200 lao động ở Đồng Nai bị cắt giảm

Chuyện bi hài thời hết việc

Dân trí) – Tại thị xã Thủ Dầu Một (Bình Dương) , nơi giàu nhất nhì Đông Nam bộ, thu nhập bình quân của người dân thuộc “CLB 1.000 USD/năm”, nhưng nhiều công nhân đang phải “cắm” cả sĩ diện để đi “mót” khoai mì (củ sắn) ăn qua ngày.

Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, hàng chục ngàn công nhân lâm cảnh thất nghiệp, giãn việc, giảm lương, nợ nần… sinh ra lắm chuyện trớ trêu. Nhiều chuyện không biết là hài hay bi…

Khó khăn nhất lúc này là những gia đình công nhân trẻ có con nhỏ

Hoãn cưới vì… không được tăng ca

Mấy tháng nay, vì lo lắng chuyện cưới xin mà S. và cô bạn gái N. làm cùng công ty tại KCN Mỹ Phước 2, Bến Cát, Bình Dương sụt mất mấy cân. Chả là cả hai đã dự định tổ chức đám cưới vào tháng giêng năm Kỷ Sửu (sau Tết Nguyên đán). Tính toán mỗi tháng thu nhập của cả hai cũng được tầm 5 triệu đồng, sau khi trừ hết các khoản cũng còn dư 2 triệu/tháng dành làm đám cưới.

Thế nhưng, mấy tháng cuối năm này công ty hết việc, không còn tăng ca nữa nên hai anh chị chỉ làm trong giờ hành chính, lãnh lương căn bản hơn 1 triệu tháng. Tính ra mỗi tháng chỉ được từ 2 – 3 triệu đồng, đủ cho cả hai ăn tiêu. Cho nên, gần nửa năm nay mà cả hai chưa dành được mấy.

Tháng rồi, S. làm được 1,7 triệu, N. được hơn 1 triệu, nhưng mẹ ở quê hối thúc quá, cả hai cũng cố chừa ra 1 triệu gửi về cho mẹ chuẩn bị lo đám cưới. Như vậy, tiền ăn, tiền trọ tháng này của cả hai chỉ còn gần 2 triệu. S. lo ra mặt, suốt ngày than thở sao không được… tăng ca. Cả hai đang bàn với nhau: hay là hoãn cưới.

Công nhân thất nghiệp, chủ nhà trọ suýt phá sản

Ông Nguyễn Anh Dũng, Chủ tịch xã An Tây, Bến Cát, Bình Dương, cho biết: “Trên địa bàn xã mấy tháng qua nhiều công nhân thất nghiệp bỏ về quê nên tình hình kinh doanh nhà trọ cũng gặp khó khăn nhiều”.

Xã An Tây là xã có đến 7.000 công nhân ngoại tỉnh tập trung làm việc tại KCN Việt Hương 2 nên số lượng phòng trọ lên đến hơn 2.000 phòng, hầu như hộ dân nào trong xã cũng kinh doanh nhà trọ và thu nhập khá ổn định. Thấy có lời nên nhiều người dân tại các địa phương khác cũng đến đây mua đất xây nhà trọ cho thuê.

Ông H. ngụ tại thị trấn Mỹ Phước, Bến Cát là một thí dụ. Nhưng ông kinh doanh không gặp thời. Ông đầu tư gần 2 tỷ đồng để mua đất và xây dựng khu nhà trọ với hơn 100 phòng tại xã An Tây này. Công trình hoàn tất vào tháng 10/2008 cũng là thời gian các công ty tại KCN Việt Hương bắt đầu sa thải công nhân nên chẳng ai thuê trọ nữa, khu nhà trọ của ông bỏ phế từ đó đến nay.

Ông tâm sự: “May mà tiền xây nhà trọ là tiền nhà nước bồi thường cho tôi khi thu hồi đất xây khu công nghiệp và đô thị Mỹ Phước. Nếu đi vay mượn để kinh doanh thì phá sản rồi”.
Một khu nhà trọ bỏ hoang vì không có công nhân thuê

“Cắm” đủ thứ để lót lòng

Cô Thái, chủ tiệm tạp hóa trên đường D4, KCN Mỹ Phước 2, kể: “Mấy tháng nay, nhiều đứa cứ đến tầm giữa tháng lại ra “cắm” chứng minh nhân dân ở quán cô để lấy chục gói mỳ về ăn cho hết tháng. Đứa nào mua quen rồi thì thiếu nợ đến cả triệu bạc từ tháng này qua tháng khác, trả mãi mà vẫn không hết. Vì chúng nó cứ đầu tháng trả được một ít thì cuối tháng lại mua chịu thêm một ít”.

Còn tại thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh lỵ của tỉnh Bình Dương giàu nhất nhì Đông Nam bộ, thu nhập bình quân của người dân thuộc “CLB 1.000 USD/năm”, nhưng nhiều công nhân của công ty TNHH Dân Sinh, phường Phú Hòa phải “cắm” cả sĩ diện để đi “mót” khoai mì (củ sắn) mà ăn qua bữa.

Ông T., một quản đốc của công ty, kể: “Công ty hồi trước có đến 500 công nhân, nay chỉ còn hơn 50. Công ty nợ lương mấy tháng rồi nên công nhân đâu có tiền bạc gì, hàng ngày 2 bữa đi ký sổ căng tin mà ăn. Muốn bớt nợ thì lân la ra mấy rẫy mì của dân xung quanh mót mấy củ còn sót sau khi người ta thu hoạch”.

Yến, công nhân bộ phận chà nhám của Dân Sinh, cho biết: “Ngày công của bộ phận em chỉ có 38 ngàn mà mấy tháng nay còn không có việc để làm thì lấy đâu ra tiền mà tiêu”.

Những cuộc chạy trốn bất đắc dĩ

Ông Lê Văn Ký, chủ nhà trọ Ký Lễ, xã An Tây, Bến Cát, Bình Dương kể: “Sau khi công ty Việt Long, Việt Khang thải gần cả ngàn công nhân, nhiều đứa quê ở xa, sau khi lãnh lương tháng cuối cùng không đủ trả tiền nhà trọ đành bỏ cả quần áo, vật dụng mà bỏ trốn. Vì tụi nó lương không đủ sống mấy tháng nay rồi, tiền trọ đứa nào cũng nợ mấy tháng, chủ nhà cũng biết nên canh dữ lắm. Do vậy, tụi nó đành bỏ của chạy lấy thân thôi”.

Anh Bùi Văn Lợi (27 tuổi), công nhân công ty Việt Long vừa mất việc, cũng thừa nhận là có nhiều bạn cùng bộ phận với mình bỏ trốn vì không đủ tiền trả tiền trọ. Nhưng khi chủ nhà trọ truy hỏi thì anh nhất mực lắc đầu bảo là không thể liên lạc với các bạn ấy nữa.

Chị Lan, chủ nhà trọ Hồng Lan trên đường D5, KCN Mỹ Phước 2 còn kể một câu chuyện buồn: “Nhà trọ của chị có hai anh em ở Nghệ An thuê lâu nay rồi, tụi nó thiếu chị mấy tháng tiền nhà. Đột nhiên cuối tháng rồi tụi nó biến mất. Đến 3 bữa trước thằng anh gọi điện về bảo là tụi nó bí quá mới đành vậy, tụi nó đang bán cây cảnh thuê cho người ta, đợi dành đủ tiền sẽ về trả cho chị”.

Rồi chị chặc lưỡi: “Tội nghiệp! Tại hoàn cảnh cả thôi, ai muốn vậy đâu”.

Tùng Nguyên – Đoàn Quý

Thu nhập người lao động giảm 20-40%

2009-01-09

Thu nhập của người lao động hiện giảm sút từ 20 đến 40%, theo kết quả một cuộc khảo sát của liên đoàn lao động thành phố Hà nội được báo Lao động đăng tải.

Bài báo cho biết nguyên nhân của tình hình này, là nhiều doanh nghiệp chuyên về hàng xuất khẩu phải thu hẹp sản xuất do ảnh hửơng của cuộc khủng hỏang kinh tế toàn cầu. Các doanh nghiệp khác cũng bị tác hại vì nhu cầu nội địa cũng giảm. Tình hình ấy khiến nhiều lao động mất việc hay giảm số giờ làm.

Xã hội:

“Rầm rộ” đào xới lề đường, vỉa hè cuối năm-dân than trời!

Cúm gia cầm hiện vẫn đe doạ VN

2009-01-08

Sau khi đã cướp đi sinh mạng 51 người VN trong 5 năm qua, cúm gia cầm H5N1 hiện vẫn đe doạ VN.

Mỗi khi có xe chở gia cầm vào chợ,nhân viên thú y chỉ làm một động tác duy nhất là phun thuốc tiệt trùng

Trong tuần này, một gia đình ở Thanh Hoá có bé gái 8 tuổi được xác định là nhiễm vi rút H5N1 đang được điều trị. Trước đó một bé gái 13 tuổi cũng thuộc gia đình này qua đời hôm 2-1 nhưng được cho là vì nguyên nhân khác.

Cúm gia cầm tái phát tại Trung Quốc

2009-01-08

Tại Trung quốc, một phụ nữ vừa chết vì virus H5N1, và chính quyền Bắc Kinh đã ra lệnh cấm gia cầm từ các tỉnh không đựơc đưa vào thủ đô.

Thêm một vụ tai tiếng mang tên Việt Nam ở nước ngoài

Trong ngày cuối cùng của năm cũ, phòng cảnh sát công an thủ đô Warszawa đưa tin vừa bắt giữ 2 công dân Việt Nam trồng cần sa.

Một sinh viên Việt Nam bị sát hại ở Nga

Tối 9/1, Tăng Quốc Bình, sinh viên Đại học Tổng hợp Quốc gia về Quản lý (GUU) đã bị những kẻ lạ mặt đâm chết gần một nhà ga tàu điện ngầm ở Matxcơva, khi đang trên đường về nhà.

Theo TTXVN, sau khi gây án, những kẻ sát nhân đã trốn thoát. Đây có thể là vụ án mạng liên quan những phần tử “đầu trọc” kỳ thị người nước ngoài ở Nga.

Các vụ tấn công nhằm vào người nước ngoài vì lý do thù hằn sắc tộc diễn ra thường xuyên, do các băng nhóm thanh thiếu niên hoặc “phát xít mới” ở Nga gây ra. Cuối năm 2004, Vũ Anh Tuấn, 20 tuổi, sinh viên năm thứ nhất Đại học Bách khoa, đã bị một nhóm thanh niên đâm nhiều nhát dao và chết ngay tại chỗ gần ký túc xá trường Y ở thành phố St Petersburg vào khoảng 11h đêm 13/10.

Tháng 4/2008, một phụ nữ Việt Nam 35 tuổi làm việc trong một khu chợ ở Matxcơva cũng đã bị đâm đến chết trong vụ tấn công được cho là do thù hằn sắc tộc.


Draft 19-12-2008

Chuyện…19/11

Posted in Economic, News, Poor, Stock | Thẻ: , , , , , , , | Leave a Comment »

Thuế thu nhập từ chứng khoán

Posted by BEAR trên Tháng Mười Hai 1, 2008

2/12/2008

Đề xuất hoãn thuế chứng khoán, tăng thời gian giao dịch
stock1812

01/12/2008 09:08 (GMT+7)

Nhiều quốc gia không, chưa và hoãn đánh thuế, trong khi một thị trường non trẻ tại Việt Nam lại chuẩn bị đón nhận chính sách này.

Chỉ còn đúng một tháng nữa, chính sách thuế thu nhập cá nhân, trong đó có thu nhập từ chứng khoán, bắt đầu thực thi. Càng sát thời điểm này, càng có nhiều ý kiến đề nghị hoãn hoặc xem xét lại lộ trình, phương thức đánh thuế…

Mới đây, TS. Nguyễn Trọng Nghĩa, Giám đốc Tư vấn Đầu tư Công ty Chứng khoán Thăng Long (TSC), có bản phân tích khá chi tiết các nguyên do không và chưa nên áp chính sách trên.

Cân nhắc các lợi ích

Nhìn ra bên ngoài, nhiều quốc gia, thị trường lớn trên thế giới đều chưa đánh thuế thu nhập cá nhân từ chứng khoán, tiêu biểu như Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Lucxembourg, Bahamas, Bermuda…

Ngoài ra, theo TS. Nguyễn Trọng Nghĩa, do thị trường chứng khoán là một kênh rất quan trọng để huy động vốn cho nền kinh tế nên phần lớn các nước, các thị trường có đánh loại thuế này cũng đều có một thời gian dài miễn thuế để kích thích sự lớn mạnh của thị trường nhằm thu hút vốn trong và ngoài nước.

Như tại Mỹ, thị trường chứng khoán ra đời năm 1897 nhưng phải đến 16 năm sau (1913) họ mới đánh thuế chứng khoán. Gần hơn, thị trường Trung Quốc đi trước Việt Nam 10 năm, gần đây mới dự định đánh thuế thu nhập cá nhân chứng khoán nhưng đã được hoãn lại để hỗ trợ cho thị trường vốn đã giảm rất mạnh từ đầu năm đến nay.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rằng việc không đánh thuế hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân tài sản (trong đó có chứng khoán) giúp cho nền kinh tế phát triển hơn, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ được tạo ra hơn, nhiều việc làm cho xã hội hơn và ngân sách không những không giảm mà thực tế còn tăng lên trong dài hạn.

Nguyên nhân cơ bản là thuế thu nhập cá nhân từ chứng khoán làm giảm lợi nhuận – giảm tiết kiệm cho đầu tư – và làm tăng chi phí vốn đầu tư, dẫn đến giảm lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Khi vốn đầu tư bị khan hiếm, vốn đầu tư sẽ chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực an toàn nhất, và tránh xa những lĩnh vực đầu tư mạo hiểm như đầu tư cho vùng sâu vùng xa, công nghệ cao…

Ngược lại, việc không đánh thuế, hoặc giảm thuế làm cho chi phí vốn giảm, khuyến khích thu hút vốn đầu tư và làm tổng vốn đầu tư tăng lên. Khi có nhiều vốn đầu tư một lượng vốn đáng kể sẽ được đổ vào các lĩnh vực mạo hiểm như trên sẽ cải thiện đời sống của người nghèo, phát triển công nghệ mới – là nhân tố quan trọng của phát triển nền kinh tế tri thức.

Với những lập luận trên, TS. Nghĩa cho rằng “sự phát triển kinh tế sẽ mang lại một nguồn thu lớn hơn rất nhiều từ thuế doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân”.

Theo dẫn chứng của Giám đốc Tư vấn Đầu tư của TSC, hơn 50 nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế trên thế giới đã chứng minh lý thuyết trên là đúng.

Nổi bật là nghiên cứu của Stephen Moore và Phil Kerpen (2000) thuộc trung tâm nghiên cứu phát triển chính sách Mỹ (IPI). Moore và Kerpen nghiên cứu ảnh hưởng của sự thay đổi thuế thu thập cá nhân lãi vốn (bao gồm lãi do bán tài sản chứng khoán, bất động sản…) đến nền kinh tế Mỹ trong giai đoạn từ năm 1942-2000.

Kết quả nghiên cứu của hai nhà kinh tế nổi tiếng trên cho thấy số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa tỷ lệ nghịch với thuế suất vốn; việc giảm thuế thu nhập cá nhân từ chứng khoán sẽ có nhiều doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường chứng khoán hơn và ngược lại.

Nguồn thu ngân sách tỷ lệ nghịch với thuế lãi vốn. Trái với dự đoán của Chính phủ, tăng thuế lãi vốn làm giảm nguồn thu ngân sách và ngược lại. Và quan trọng hơn cả, tăng trưởng GDP thực tỷ lệ nghịch với thuế lãi vốn (tăng thuế lãi vốn làm giảm tăng trưởng GDP thực của Mỹ trong giai đoạn 1989-1996 và ngược lại cho giai đoạn 1997-2000).

3 lý do không nên đánh thuế

Trong bản phân tích, TS. Nguyễn Trọng Nghĩa đưa ra 3 lý do chính không nên đánh thuế thu nhập cá nhân từ chứng khoán.

Thứ nhất, vì thuế này kìm hãm sự phát triển kinh tế như đề cập ở trên. Hơn nữa mục tiêu của Chính phủ không phải là để thu được nhiều ngân sách nhất mà là thu được một lượng ngân sách vừa đủ trong khi vẫn khuyến khích nền kinh tế tăng trưởng cao nhất. TS. Nghĩa cho biết một nghiên cứu gần đây cho thấy cứ 1 USD tăng thêm từ tăng thuế thu nhập cá nhân từ chứng khoán thì 10 USD GDP bị mất đi.

Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân lãi vốn (trong đó có chứng khoán) chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với nguồn thu ngân sách (thường chỉ khoảng 7%), trong khi  nếu bỏ thuế này thì nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn và nguồn thu ngân sách cũng tăng mạnh hơn, thậm chí lớn hơn nhiều so với khoản thu từ thuế thu nhập cá nhân từ chứng khoán.

Thứ ba, bản thân thuế thu nhập cá nhân chứng khoán là một loại thuế kép, không công bằng vì Chính phủ đã đánh thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc đánh thuế trên thu nhập chứng khoán và cổ tức về bản chất là sự đánh thuế hai lần trên thu nhập đầu tư – do đó cần bị loại bỏ.

Chính vì những nguyên nhân trên mà hiện nay nhiều nhà kinh tế học trên thế giới đang thuyết phục Chính phủ của họ giảm hoặc xóa loại thuế này. Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (1987-2006) cho rằng tỷ lệ tối ưu của thuế này là 0%.

Việt Nam quá vội vàng?

Việt Nam là một nước đang phát triển với thị trường chứng khoán còn non trẻ, vốn hóa thị trường còn thấp, khoảng 20% GDP so với bình quân 50% GDP của các nước trong khu vực.

“Việc đánh thuế thu nhập cá nhân chứng khoán sẽ không khuyến khích được các nhà đầu tư tham gia thị trường, điều này sẽ làm trở ngại đến tiến trình cổ phần hóa (vốn đã đang bị đình trệ) và đặc biệt là hoạt động huy động vốn của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán”, TS. Nghĩa nhận định, “vì vậy, Chính phủ chưa nên đánh thuế, ít nhất là cho đến khi thị trường đã tương đối phát triển, vốn hóa thị trường đạt khoảng 50% GDP”.

Mặt khác, chuyên gia của TSC còn cho rằng chính sách thuế thu nhập chứng khoán của Việt Nam (Thông tư số 84/2008/TT-BTC) chưa được hoàn thiện, còn nhiều bất cập, và đặc biệt là chưa khuyến khích được nhà đầu tư.

Thông tư 84 vẫn còn nhiều bất cập liên quan đến đối tượng, phương thức đánh thuế cũng như hoàn thuế. Như các vấn đề liên quan đến cổ phiếu thưởng và đặc biệt là cách xác định giá (mua, bán) của các cổ phiếu chưa niêm yết; việc không cho phép nhà đầu tư được hoàn thuế (giảm thu nhập chịu thuế cho các năm tiếp theo) trong trường hợp bị thua lỗ cũng là một bất cập, trong khi phần lớn các nước đều cho phép được chuyển lỗ sang các năm sau trong vòng 3-5 năm (Hàn Quốc, Indonesia, Úc..), thậm chí còn vô thời hạn.

Việc không tính các chi phí liên quan khác như lãi suất vay ngân hàng để đầu tư, lạm phát… vào chi phí cũng là một điểm bất lợi cho nhà đầu tư, đặc biệt là ở những nước có lạm phát và chi phí vốn vay cao như Việt Nam trong thời gian qua, cũng là một hạn chế của thông tư này.

Và mức thuế 20% trên thu nhập cũng là quá cao. Các nước phát triển hơn Việt Nam còn có mức thuế thấp hơn rất nhiều để khuyến khích nhà đầu tư như Ấn Độ 10%, Hàn Quốc 11%, Bồ Đào Nha 10%, Italy 12.5%…

Tăng thêm “nỗi đau” của nhà đầu tư?

Về lý thuyết, thuế sẽ làm tăng chi phí vốn, dẫn đến giảm thu nhập từ chứng khoán; hệ quả là giá trị cổ phiếu giảm và thị trường chứng khoán kém hấp dẫn đi.

Lịch sử chứng minh rằng, trong giai đoạn chuyển tiếp ngay trước thời điểm tăng thuế có hiệu lực thị trường có thể bị sụt giảm mạnh do các nhà đầu tư hiện thực hóa lợi nhuận để tránh thuế thu nhập. Điều này đã được kiểm chứng ở hầu hết các thị trường chứng khoán.

Như tại Trung Quốc, tin đồn về việc áp dụng thuế này đã làm cho thị trường chứng khoán đổi chiều trong năm 1994 và 2007. Sự sụt giảm mạnh của thị trường này năm 1994 đã buộc Bộ Tài chính phải thông báo không đánh thuế thu nhập từ chứng khoán để kích thích sự phát triển thị trường.

Với Việt Nam, do thị trường đã bị sụt giảm trong một thời gian dài, phần lớn các nhà đầu tư đều thua lỗ nên hiệu ứng trên có thể không xảy ra. Theo đó, TS. Nguyễn Trọng Nghĩa cho rằng tác động của thuế này trong ngắn hạn chủ yếu mang tính tâm lý.

Ông cũng nhân định thêm: “Việc đánh thuế thu nhập vào các khoản lãi ít ỏi (nếu có, so với những khoản thua lỗ) sẽ làm tăng thêm “nỗi đau” của nhà đầu tư, có thể gây ra sự chán nản và hậu quả có thể là sự rời bỏ thị trường”.

Trong dài hạn, việc đánh thuế sẽ làm cho thị trường phát triển chậm hơn do không thu hút được nhiều nhà đầu tư mới tham gia, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân nước ngoài vốn rất nhạy cảm với thuế. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể sẽ chuyển vốn sang các nước không áp dụng thuế này nếu như mức độ hấp dẫn của hai thị trường là tương đương.

Đọc thêm: 22.10.2008: Việt Nam và cuộc khủng hoảng tài chính phố Wall – TS. Nguyễn Trọng Nghĩa và  TS. Quách Mạnh Hào


Posted in Stock, Tax | Thẻ: , | Leave a Comment »

Tại sao trong thời điểm TTCK sụt giảm, kinh tế cũng suy thoái thì SCIC lại bán vốn nhà nước?

Posted by BEAR trên Tháng Mười Một 8, 2008

TCty Đầu tư & kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) đang khẩn trương thực hiện bán vốn nhà nước tại 144 DN. Tuy nhiên, câu hỏi cần đặt ra là: Tại sao trong thời điểm TTCK sụt giảm, kinh tế cũng suy thoái thì SCIC lại bán vốn nhà nước?

Đặc biệt nhiều chuyên gia và NĐT quan tâm là SCIC sẽ sử dụng đồng vốn bán để làm gì? Trả lời phóng viên Báo Lao Động, ông Trần Văn Tá – TGĐ SCIC – cho biết:

Đúng là SCIC hiện đang tích cực triển khai bán vốn nhà nước tại 144 DN cổ phần. SCIC đang phối hợp chặt chẽ với một số CTCK đã được lựa chọn thông qua đấu thầu và các DN thuộc diện bán vốn nhà nước để đẩy nhanh tiến độ xác định giá khởi điểm, xây dựng bản cáo bạch và quy chế đấu giá. Trên cơ sở đó, SCIC sẽ tổ chức bán đấu giá công khai tại DN hoặc các trung tâm giao dịch CK.

– Việc thoái vốn đúng lúc TTCK sụt giảm liệu có phải là thời điểm thích hợp? Đề xuất với Chính phủ về việc điều chỉnh các phương thức bán vốn nhà nước có được chấp nhận không thưa ông?

– Trong điều kiện hiện nay, SCIC hạn chế bán CP của DN trong danh mục đầu tư và đang niêm yết trên 2 sàn giao dịch. Do đó, toàn bộ 144 DN SCIC bán vốn đợt này đều là DN chưa niêm yết, có quy mô vốn nhỏ và không thuộc ngành kinh tế trọng yếu. Mặt khác, SCIC bám sát thị trường để điều tiết thời điểm, khối lượng và giá bán hợp lý.

Bên cạnh đó vào thời điểm hiện nay, đối tượng người mua SCIC hướng tới chủ yếu là đối tác, bạn hàng của DN và người lao động tại chính DN nhằm khuyến khích ho, gắn bó với Cty. Với đề xuất đa dạng hoá phương thức bán vốn nhà nước tại DN, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận trên nguyên tắc. Trong thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ sớm hoàn tất hướng dẫn để đưa chủ trương trên vào thực hiện.

– Vốn  thu được từ bán vốn nhà nước sẽ được sử dụng như thế nào, thưa ông?

– Với nhiệm vụ là NĐT chiến lược của Chính phủ, số tiền thu về từ BVNN tại DN sẽ được SCIC tái đầu tư vào các DN mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần và đầu tư vào các dự án mới trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.

Mới đây, SCIC đã chủ động làm việc với Bộ Công Thương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN); đồng thời đề xuất gửi Thủ tướng Chính phủ để SCIC đầu tư vào các dự án sản xuất điện do EVN làm chủ đầu tư. Hình thức là SCIC mua lại cổ phần của EVN tại các dự án điện đang triển khai và các dự án đã đi vào khai thác. Mục đích là nhằm đảm bảo tỉ trọng chi phối của Nhà nước trong một số dự án điện trọng điểm. Bên cạnh đó là chia sẻ gánh nặng vốn với EVN.

Ngày 5.11, SCIC ký kết Thoả thuận hợp tác với TCty Hàng hải VN (Vinalines) và TCty Lắp máy VN (Lilama) trong việc đầu tư vào một số dự án lớn như: Dự án xây dựng và khai thác cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong (Khánh Hoà); cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (Lạch Huyện)…

Chứng khoán và bàn tay hữu hình: SCIC- Tổng Công Ty Đầu Tư Kinh Doanh Vốn Nhà Nước

Posted in Economic, Stock | Thẻ: | Leave a Comment »

Chứng khoán và bàn tay hữu hình: SCIC- Tổng Công Ty Đầu Tư Kinh Doanh Vốn Nhà Nước

Posted by BEAR trên Tháng Ba 12, 2008

Thị trường chứng khoán được lập ra để huy động vốn tiết kiệm vào đầu tư

TTCK chỉ có một quy luật vận hành là cân bằng “lợi nhuận kì vọng”: Khi lợi nhuận kì vọng của cổ phiếu giảm so với trước hoặc so với các hình thức đầu tư khác (mua vàng, đầu cơ bất động sản, gửi tiết kiệm) thì giá của từng cổ phiếu giảm và ngược lại.

Hiện tại, có nhiều yếu tố khiến nhà đầu tư tin rằng lợi nhuận kì vọng của chứng khoán sẽ giảm xuống trong 2008.

Đầu tiên, lãi suất ngân hàng vừa qua tăng rất nhanh làm cho hình thức đầu tư cổ phiếu giảm nhanh sự hấp dẫn tương đối so với gửi tiền tiết kiệm.

Hai là, lạm phát dự kiến tăng cao và có khả năng đẩy nền kinh tế vào tình trạng suy thoái sẽ ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp trên sàn (giá vốn tăng do lãi suất tăng, giá đầu vào tăng do giá nguyên/nhiên liệu tăng, giá trị thực của lợi nhuận giảm vì lạm phát, sức mua của người tiêu dùng giảm do thu nhập giảm v.v.).

Ba là, nhiều doanh nghiệp trên sàn sau khi thu hút được số vốn khổng lồ từ TTCK đã đầu tư tràn lan vào bất động sản. Một khi thị trường nhà đất đóng băng (hệ quả của thu hẹp tín dụng) thì giá trị của các doanh nghiệp đó cũng tụt giảm.

Nếu Vnindex sụt giảm vì bốn nguyên nhân trên, thì đó là cân bằng tất yếu của thị trường để phản ánh giá trị thực của các doanh nghiệp trên sàn, và việc cưỡng lại sự xuống dốc sẽ vô cùng tốn kém và không hiệu quả.

Thanh khoản và TTCK

Người viết bài này cho rằng, hiện tại, nếu VNindex xuống thấp hơn giá trị thực, thì chỉ có một nguyên nhân là: sự thiếu hụt thanh khoản cho các nhà đầu tư đã ngăn cản TTCK điều chỉnh về mức cân bằng.

 

Lợi ích thì không rõ ràng, nhưng những hệ luỵ của việc Chính phủ can thiệp trực tiếp vào TTCK là nghiêm trọng và lâu dài

Từ cuối 2007, chủ trương của NHNN siết tỉ lệ cho vay chứng khoán đã chặn đứng, thậm chí đảo chiều, dòng vốn đang đổ vào TTCK, (vì đa số các ngân hàng thương mại đã cho vay quá tỉ lệ).

Tình trạng thiếu tiền mặt)của nhiều ngân hàng đầu năm 2008 đã khiến việc cho vay mới bị chững lại và lãi suất tăng vọt.

Cộng thêm việc tỉ giá bị neo chặt, các ngân hàng không thể đổi USD cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Kết quả là đa số các nhà đầu tư đều thiếu thanh khoản, người đang nắm thì muốn bán để có tiền mặt, người mua thì lại không có tiền mặt để mua, khiến giá chứng khoán giảm mạnh.

Điều này tương tự như kết luận của nhà kinh tế trọng tiền Milton Friedman rút ra từ cuộc Đại khủng hoảng 29-33 ở Mỹ: việc thắt chặt tiền tệ quá nhanh sẽ làm sụp đổ TTCK và gây ra khủng hoảng kinh tế.

Lợi và hại của bàn tay hữu hình SCIC

Việc SCIC mua cổ phiếu trên TTCK có thể giải quyết vấn đề tâm lý ngắn hạn cho một số nhà đầu tư.

Nhưng nó sẽ không thể có ảnh hưởng tích cực lâu dài hay căn bản lên TTCK: Nó không hề tác động đến cái động cơ vận hành của TTCK là lợi nhuận kì vọng, bởi vì nó không làm thay đổi kì vọng về các kênh đầu tư khác như gửi tiết kiệm, mua vàng (là kết quả của chính sách tiền tệ).

Một là, việc nhà nước can thiệp vào TTCK sẽ bóp méo tín hiệu của thị trường vốn. SCIC sẽ dùng tiêu chí nào để xác định là chứng khoán đang ở dưới giá trị thực, trong khi giá thị trường chính là cái đáng lẽ phải phản ánh giá trị thực của chứng khoán?

Làm sao một doanh nghiệp không có động cơ tối đa hoá lợi nhuận (thua về cả khả năng tính toán so với hàng triệu nhà đầu tư cả tổ chức và cá nhân, lẫn tính năng động tìm kiếm cơ hội) có thể thông minh hơn thị trường về giá trị thực của nó?

Với sự tham gia của các quan chức cao cấp của Chính phủ (gồm cả bộ trưởng Bộ Tài chính, thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và thứ trưởng Bộ Công thương) vào Hội đồng Quản trị của SCIC, trong trường hợp doanh nghiệp quốc doanh này gặp bê bối về mua bán cổ phiếu, uy tín của chính phủ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Hai là, nếu diễn biến xấu trên TTCK kéo dài, việc mua cổ phiếu của SCIC có thể dẫn đến bội chi ngân sách và trầm trọng thêm vấn đề lạm phát.

Lí do là để “cứu” khẩn cấp TTCK, thì SCIC phải bơm vào một lượng tiền rất lớn trong thời gian rất ngắn. Tổng giá trị thị trường (market capitalization) vào cuối 2007 đã lên tới khoảng 500 nghìn tỉ đồng (tuy đã mất đi khoảng một phần ba trong hai tháng qua).

Tuy phản ứng ban đầu của TTCK trước cam kết “bảo kê” của SCIC là khá tích cực, kì vọng này sẽ còn thay đổi.

Liệu SCIC có đủ tiền và có nên bỏ ra hàng chục nghìn tỉ đồng trong vài ngày hay vài tuần để “cứu” thị trường trong lúc chính Bộ Tài chính cũng đang thiếu tiền mặt để chi tiêu? SCIC hay Bộ Tài chính sẽ lấy tiền mặt với số lượng như thế ở đâu mà không làm khủng hoảng thanh khoản thêm trầm trọng, hay in thêm tiền để làm tăng lạm phát?

Ba là, dù có bịt được việc “xả hàng” của một số tổ chức đầu tư, thì việc SCIC giành lại quyền sở hữu một khối lượng lớn cổ phiếu sẽ đảo ngược quá trình cổ phần hoá (giao vốn vào khu vực tư năng động hơn).

Việc này đồng thời làm chậm lại quá trình IPO vốn đã nhỏ giọt: SCIC sở hữu càng nhiều thì nó càng muốn tiến trình cổ phần hoá chậm lại để không làm “lụt” thị trường (đúng hơn là cạn kiệt thanh khoản).

Giá đắt?

VNindex tụt xuống mức 600 điểm là một cuộc sụp đổ (crash) của TTCK, nhưng mức sụt giảm là tự nhiên và đúng quy luật, trong tình trạng lạm phát tăng và lãi suất tăng.

Muốn VNindex tăng, thì cách lâu dài và căn bản nhất là ngăn chặn lạm phát, xì hơi bong bóng nhà đất và hạ nhiệt nền kinh tế từ từ.

Việc SCIC can thiệp vào TTCK ít khả thi, có thể phải trả giá đắt về chính sách vĩ mô, trong khi lợi ích của nó nếu có chỉ là ngắn hạn.

Nếu có lí do để tin rằng VNindex thấp hơn giá trị thực, thì việc nhà nước nên làm trong ngắn hạn chỉ là giải quyết bài toán thanh khoản.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/03/080310_viet_inflation.shtml

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2008/03/11/When_Govt_intervenes_the_supply-demand_law_of_FreeMarket_TGiao/

Posted in Economic, Stock | Leave a Comment »