Bài cũ:
Nông dân đang bị bần cùng hóa?
Tổng thu nhập của người nông dân là 40.000 đồng/ tháng/người
Truyện dài kỳ : đất đai
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HIỆN NAY
Hiệp Hội Lương Thực đạt siêu lợi nhuận trong khi nông dân hưởng lợi không đáng kể
Lúa gạo Việt Nam: Ăn đắt bán rẻ
Bảo hiểm nông nghiệp theo thời tiết?
Phạm Trần: Nông dân hay bần cố nông? Cán bộ ăn cả tiền xóa đói giảm nghèo
Bỏ quên nông dân, không thể công nghiệp hóa vững chắc
Chủ tịch xã “xẻo” gạo cứu đói của dân đi… trả nợ
Làm ra lúa gạo mà không đủ sống, nông dân thi nhau trả ruộng
Nguy cơ MẤT DÂN TỘC–> Cần phát triển một xã hội dân sự cường tráng mới phát huy được sinh lực của dân.
Các nhà nghiên cứu chính sách cho rằng, thể chế ở nông thôn hiện nay làm cho nông nghiệp nông thôn không phát triển được, nông dân bị động và lệ thuộc vào quyết định của những tầng lớp khác.
Khi gánh chịu suy thoái kinh tế, nông thôn là nơi có ảnh hưởng rõ nét nhất. Thành tích xóa đói giảm nghèo mà Việt Nam thực hiện được trong hơn một thập niên có thể mất nhiều ý nghĩa.
Năm 1993, ở Việt Nam cứ hai gia đình thì có một gia đình nghèo khổ, nói rõ hơn là tỷ lệ hộ nghèo tòan quốc là 58%. Với chính sách đổi mới và trợ giúp của quốc tế, đến năm 2008 tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam hạ xuống mức 12,5%.
Thành tựu mà chính phủ Việt Nam tự hào nhiều nhất đã mai một chỉ trong vòng nửa năm, do ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới. TS Vũ Trọng Bình, Giám đốc Trung Tâm Phát Triển Nông Thôn một tổ chức nghiên cứu của Nhà nứơc đã nói với chúng tôi, Việt Nam sẽ khó giữ vững thành tích giảm nghèo của mình:
“Trong bối cảnh khủng hoảng mà giữ được tỷ lệ nghèo mà không bị tăng lên đã là giỏi lắm rồi, bây giờ lại giảm đi nữa tôi không tin là chúng ta có thể tiếp tục giảm nghèo được. Thực ra tôi nghĩ là tỷ lệ nghèo một số vùng chắc chắn sẽ tăng cao. Ngay trong khảo sát, chúng tôi đã nói là có một số xã, không phải tất cả nhưng một số xã đã nói là tỷ lệ nghèo bần cùng của họ đã tăng lên rồi.”
Cơ chế, đường lối
Một chuyên gia khác, giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp Việt Nam, đã đánh giá là sau hơn 30 năm đổi mới, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam ở trong tình trạng kém phát triển.
Ông cho rằng cơ chế, đường lối và quyết định của các nhà lãnh đạo Việt Nam đã đưa tới hậu quả vừa nói.
Như vậy có nghĩa cần có sự cải tổ cả ba vấn đề vừa nói liên quan tới nông nghiệp nông thôn Việt Nam. TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn nhận định về vấn đề này:
“Chúng tôi không hài lòng với cơ chế hiện nay và đang tìm cách tháo gỡ chính sách về đất đai về lao động về đầu tư cho nông nghiệp.”
Vậy thì cải tổ thế chế nói chung là gì. TS Nguyễn Quang A, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phát Triển, một tổ chức tư nhân ở Hà Nội đưa ra nhận định:
“Đầu tiên là các qui định của Nhà nứơc, các chính sách và luật pháp. Chuyện cải cách thể chế hiểu theo nghĩa như thế, là một quá trình đã được tiến hành suốt 20 năm qua liên tục. Tôi nghĩ rằng trong thời gian tới vẫn phải tiến hành.”
Nhu cầu thay đổi
“Chúng tôi nghĩ là vai trò của cộng đồng là một, vai trò của đoàn thề là hai, vai trò của hợp tác xã của nông dân là ba, cần phải được thay đổi, được tổ chức xây dựng lại, để làm thế nào người nông dân thực sự đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, cả trong sản xuất lẫn trong quản lý xã hội quản lý môi trường.”
Luật pháp Việt Nam không công nhận quyền tư hữu đất đai, nông dân canh tác trên đất mà họ được cấp quyền sử dụng với diện tích hạn chế, gọi là hạn điền. Sửa đổi luật đất đai mang tính triệt để là trở ngại lớn nhất.
“Hội Nông Dân hiện giờ cho có hình thức vậy thôi, tôi thấy không hoạt động gì cho lắm, ở xã ở huyện có Hội Nông Dân mỗi ngừơi được cấp cái thẻ hội viên, nhưng thực ra họ chẳng có thông tin gì cho nông dân, hoạt động yếu lắm.”
Tổ chức xã hội nông thôn hiện nay qúa lỏng lẻo, vì thế nông dân không hưởng lợi đúng mức từ sản phẩm nông nghiệp làm ra.
Các nhà nghiên cứu chính sách của Nhà nước Việt Nam đều nhìn nhận nhu cầu bức thiết trong việc cải tổ thể chế ở nông thôn. Trong khủng hỏang đã lộ ra những mắt xích yếu nhất của hệ thống kinh tế xã hội, đặc biệt là khu vực nông nghiệp nông thôn.
Bạo loạn ở khu vực nghèo khổ, bất ổn ở nông thôn Trung Quốc có thể là một cảnh báo cho Việt Nam. Liệu tình trạng đời sống cách biệt giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam có đang tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội hay không?
Sau nhiều thập niên đề cao nông nghiệp và nông dân như khẩu hiệu tuyên truyền, nhưng thực tế đầu tư cho nông nghiệp nông thôn chỉ chiếm tỷ lệ 1/10 tổng đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước. Tình trạng này khiến nông nghiệp nông thôn khá trì chậm trong tốc độ phát triển chung. Nông nghiệp đóng góp 1/5 tổng sản phẩm nội địa GDP của Việt Nam, xuất khẩu nông thủy sản đạt nhiều thành tựu, đặc biệt là gạo và tôm cá. Thế nhưng người nông dân vẫn quá nghèo, một thực tế mà GSVS Đào Thế Tuấn nguyên Viện Trưởng Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam trong phát biểu trên Vietnam Net ngày 2/7 đã nói rằng, nông dân đang bị bần cùng hóa và đây là nguy cơ gây bất ổn xã hội. Như ở Trung Quốc bây giờ, bạo loạn xảy ra rất nhiều ở nông thôn, điều ông cho là hậu quả của sự bần cùng hóa.
Nhìn sang thế giới
Liệu nông thôn Việt Nam đang có những dấu hiệu của bất ổn xã hội hay không. Chúng tôi nêu câu hỏi này với TS Đặng Kim Sơn, Viện Trưởng Viện Chính Sách và Chiến Lược Phát Triển Nông Nghiệp Nông Thôn trụ sở ở Hà Nội và được ông trả lời:
”
… bên cạnh nguyên nhân về sắc tộc, về tôn giáo, thì sự chênh lệch về cuộc sống, về cơ hội phát triển của cư dân nông thôn và cư dân đô thị là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự bất ổn xã hội, dẫn đến bất ổn về môi trường.
TS Đặng Kim Sơn
“Tình hình ở Trung Quốc tương đối rõ, không những vậy tình hình ở Thái Lan, ở các nước Nam Á, gần đây tình hình ở Mỹ La Tinh cho thấy rằng, bên cạnh nguyên nhân về sắc tộc, về tôn giáo, thì sự chênh lệch về cuộc sống, về cơ hội phát triển của cư dân nông thôn và cư dân đô thị là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự bất ổn xã hội, dẫn đến bất ổn về môi trường.
Ở Việt Nam chúng tôi nhìn nhận rằng đối với nông dân nông thôn vấn đề cơ hội, vấn đề công bằng của họ trong quá trình phát triển công nghiệp hóa và đô thị hóa không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề ổn định chính trị xã hội và môi trường. Tuy nhiên về mức độ thì chúng tôi nghĩ là tình hình ở Việt Nam là khá tốt. Có thể nói là sự ổn định chính trị xã hội đã giúp cho Việt nam trong thời gian vừa qua thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài, Việt Nam là nước đứng thứ 6 về thu hút đầu tư nước ngoài. Trong sự ổn định chính trị xã hội này, vấn đề công bằng xã hội ở nông thôn phải luôn luôn chú ý, nếu mà lơ là nếu làm không đúng thì nó sẽ là nguy cơ gây bất ổn. Theo tôi ở Việt Nam thời gian qua về cơ bản đã làm tốt lãnh vực này.”
Nông dân vẫn thiệt thòi
Theo phân tích của TS Đặng Kim Sơn, Viện Trưởng Viện Chính Sách và Chiến Lược Phát Triển Nông Nghiệp Nông Thôn thì cần có thêm nhiều nỗ lực để giảm bớt khoảng cách đời sống chênh lệnh giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị.
“Cái mà nông dân được hưởng, nông nghiệp được đầu tư chưa tương xứng với mức độ đóng góp của người nông dân, mức độ phấn đấu hy sinh của người nông dân cũng như thành tích mà nông nghiệp đem lại.
- Đầu tư công cho nông nghiệp là thấp,
- đầu tư của toàn xã hội cho nông nghiệp là thấp.
- Mức tăng trưởng đời sống của nông dân rất cao, nhưng so với mức tăng trưởng của đời sống của người dân ở đô thị thì hiện nay khoảng cách của thu nhập trung bình của cư dân nông thôn chỉ bằng một nửa của đô thị.
Tất nhiên so với nhiều quốc gia kể cả Trung Quốc thì đây là một thành tích đáng tự hào, nhưng rõ ràng là người Việt Nam không phấn khởi với mức chênh lệch này.”
TS Nguyễn Quang A, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Phát Triển một tổ chức tư nhân ở Hà Nội cho rằng phải có cải tổ cơ cấu nông nghiệp nông thôn để giải quyết sự bế tắc:
“Chừng nào chưa có sự thay đổi tư duy liên quan tới đất đai, chừng nào chưa sửa được luật đất đai một cách triệt để, giao quyền sở hữu cho người dân, bớt hay loại bỏ hạn điền, quan trọng nhất là có chính sách khuyến khích người dân tự tập họp lại.”
Có thể Nhà nước VN đã nhìn thấy mối nguy tiềm ẩn về sự bất ổn ở nông thôn, nên chính vì vậy vào năm 2008 Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam mới đề ra nghị quyết về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, trong đó gắn kết ba chủ thể này với nhau. Nghị quyết này được các chuyên gia nghiên cứu chính sách dẫn giải rằng, đã đặt ưu tiên về
- yếu tố con người ở nông thôn,
- yếu tố thu nhập,
- yếu tố cải thiện đời sống kinh tế xã hội và tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn.
Tuy vậy từ nghị quyết tới cuộc sống là một khoảng cách khá xa, có khi còn xa hơn mức chênh lệch đời sống giữa nông thôn và thành thị ở Việt nam hiện nay.
Nhiều chuyên gia phân tích vấn đề này và cho rằng đã đến lúc phải xây dựng xã hội công dân, xã hội dân sự ở nông thôn để người dân có thể tham gia việc quyết định cuộc sống của mình.
Ba cái khó của nông dân VN
Đặng Kim Sơn: Có 3 khó khăn đối với người dân VN,
- Thứ nhất là xuất phát điểm thấp, về thu nhập về hạ tầng, cả về hệ thống môi trường pháp luật, chính sách.
- Thứ hai là cuộc cạnh tranh không công bằng trong tự do hóa toàn cầu hiện nay, đặc biệt là thương mại nông nghiệp và vẫn chưa đi đến thống nhất được với nhau.
- Và thứ ba, bản thân người nông dân bước ra kinh tế thị trường với cái sản xuất nhỏ, chưa tập trung lại với nhau chưa có năng lực để vươn lên, bản thân họ phải tự lột xác để vươn lên.
Ba cái khó khăn này của nội tại, của trong nước, ngoài nước tạo nên sự chênh lệch giữa nông nghiệp và các lãnh vực khác, giữa cư dân nông thôn với cư dân đô thị. Nếu muốn diễn giải thì phải nói là từ ba nguyên nhân như thế.
Tất nhiên trong đó không thể không nói tới cái yếu kém trong hệ thống cơ chế chính sách, chúng tôi không hài lòng với cơ chế hiện nay và đang tìm cách tháo gỡ chính sách về đất đai về lao động về đầu tư cho nông nghiệp. Nhưng chúng tôi nghĩ là đấy không phải là nguyên nhân chính tạo nên tình trạng khó khăn và những thách thức đối với nông dân hiện nay.
Thay đổi thể chế nông thôn
TS Đặng Kim Sơn: Khái niệm xã hội dân sự đối với Việt Nam, nói chung còn là vấn đề khá mới mẻ. Thóat thai từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sản xuất nhỏ chuyển sang một nền kinh tế thị trường hàng hóa lớn, ở các nước khác phải mất cả trăm năm. Ở Việt nam quá trình chuyển biến trong thời gian qua, mọi người ngay cả bản thân chúng tôi cảm thấy rất sốt ruột, ai cũng muốn đẩy nhanh lên.
Thực sự mà nói đây là một quá trình phát triển chóng mặt, không phải chỉ ở thành thị, nhìn vào nông thôn mức độ xây dựng, mức độ thay đổi cuộc sống là chóng mặt. Thế thì biến đổi xã hội dân sự thực chất là biến đổi về thể chế, mức độ thay đổi là ở tầng rất sâu và rất phức tạp.
Tuy nhiên chúng tôi hoàn toàn thống nhất với GS Đào Thế Tuấn rằng, đã đến lúc phải tiến hành thay đổi thể chế, đặc biệt là thể chế nông thôn.
Như tôi đã trình bày trong ba yếu kém, có một yếu kém quan trọng tự bản thân người nông dân. Nếu người nông dân Việt Nam với qui mô 0,6 ha mà lại chia thành 15 mảnh ruộng nhỏ và lại chia thành hơn 10 triệu hộ riêng lẻ như hiện nay, thì không có tài gì có thể tập hợp lại có thể đưa ra khối lượng sản phẩm hàng hóa với chất lượng cao và ổn định, đưa tới tay khách hàng đúng hạn đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn.
Xây dựng một xã hội dân sự
TS Đặng Kim Sơn: Việc quan trọng là người nông dân phải tổ chức lại với nhau. Chúng tôi không biết, nếu nói đây là xã hội dân sự thì nó có đầy đủ hay không. Nhưng rõ ràng là phải có sự đổi mới về tổ chức ở phía nông thôn. Trước hết người nông dân nhỏ hợp tác lại với nhau trong các hợp tác xã, ruộng đồng làng bản hợp tác với nhau trong việc quản lý xã hội, trong việc quản lý tài nguyên, trong việc quản lý các cơ sở hạ tầng mà nhà nước xây dựng, hoặc nhân dân xây dựng nên.
Chúng tôi nghĩ việc này dân phải làm. Các tổ chức đoàn thể, đặc biệt tổ chức Hội Nông Dân là phải thực sự đóng vai trò đại diện cho người nông dân trong việc đào tạo tay nghề cho mình, trong việc tiếp thu tín dụng, trong việc bảo vệ môi trường ở cơ sở.
Chúng tôi nghĩ là vai trò của cộng đồng là một, vai trò của đoàn thề là hai, vai trò của hợp tác xã của nông dân là ba, cần phải được thay đổi, được tổ chức xây dựng lại, để làm thế nào người nông dân thực sự đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, cả trong sản xuất lẫn trong quản lý xã hội quản lý môi trường.
Không biết như thế gọi là xã hội dân sự thì có hoàn toàn đầy đủ không. Nhưng có điều chúng tôi đồng ý với GS Đào Thế Tuấn là, chúng ta phải củng cố lại tổ chức ở nông thôn, nâng cao vai trò, nâng cao tính chủ động, nâng cao năng lực nội tại của người dân nông thôn. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý nếu nói xã hội dân sự trong khía cạnh như thế.
GS. VS. Đào Thế Tuấn – người vừa nhận Huân chương của Chính phủ Pháp – cho rằng nông thôn, nông nghiệp Việt Nam kém phát triển hoàn toàn là do cơ chế và đường lối lãnh đạo. Đó là hậu quả của việc bóc lột nông nghiệp để dồn lực cho công nghiệp.
“Phát triển nông nghiệp: Không làm là chết, vậy thôi”
– Thông thường nhà nghiên cứu ở lĩnh vực nào cũng thấy lĩnh vực của mình là quan trọng sống còn. Chắc ông cũng cho rằng nông nghiệp đang đóng vai trò quan trọng sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam. Theo ông thì trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, tại sao lại cần phát triển nông nghiệp?
|
GS. VS. Đào Thế Tuấn (Ảnh: Hoàng Thư)
|
– Tôi không đồng ý với cách nói “phát triển nông nghiệp vì chúng ta có lợi thế về nông nghiệp”, “vì chúng ta có điều kiện phát triển nông nghiệp”.
Nông nghiệp là ngành mà chúng ta phải duy trì và phát triển, không phải vì lợi thế cạnh tranh nào cả, mà vì phát triển nông nghiệp là chuyện bắt buộc phải làm, không là chết, vậy thôi.
Người ta đã tính rằng đến năm 2050, thế giới cần lương thực gấp đôi hiện nay, đến cuối thế kỷ thì nhu cầu tăng gấp ba. Nếu cung lương thực cho thế giới thiếu thì giá chắc chắn sẽ tăng lên. Nói cách khác, nếu để mất an ninh lương thực thì sẽ phải nhập khẩu để sống sót, mà nhập khẩu thì càng ngày càng đắt.
Việt Nam có 86 triệu dân, con số không hề nhỏ. Phải xây dựng được nền nông nghiệp ít nhất là bảo vệ được an ninh lương thực của nước nhà, còn nếu biết làm tốt hơn thì càng có lợi về kinh tế.
Nhìn từ góc độ chính trị – xã hội, nông dân Việt Nam là những người ít được hưởng lợi từ đổi mới nhất. Nông dân còn quá nghèo, ít được hưởng phúc lợi xã hội (giáo dục, y tế…), thiếu việc làm ở nông thôn và buộc phải di cư ra thành phố làm thuê với giá lao động rẻ mạt.
Nông dân đang bị bần cùng hóa, và đó là nguy cơ gây bất ổn xã hội. Như ở Trung Quốc bây giờ, bạo loạn ở nông thôn xảy ra nhiều lắm, ấy là hậu quả của sự bần cùng hóa nông dân.
– Có phải sự bần cùng hóa đó là khó tránh khỏi trong quá trình công nghiệp hóa, ở tất cả các nước chứ không riêng Việt Nam? Nói cách khác, nó là một hệ quả của công nghiệp hóa?
– Quá trình công nghiệp hóa ở các nước không giống nhau. Thế kỷ 17-19, các nước tư bản dùng nguồn lợi bóc lột từ hệ thống thuộc địa để làm công nghiệp hóa, ví dụ Anh, Pháp là theo cách này. Nước nào không có thuộc địa, như Đức, thì gây chiến để giành lấy thuộc địa.
Thế kỷ 20, Liên Xô sau khi tiến hành Cách mạng Tháng Mười, không có nguồn lực để công nghiệp hóa nên họ buộc phải dùng nông nghiệp để làm công nghiệp. Trung Quốc từ thời Mao Trạch Đông cũng vậy, bóc lột nông dân, vắt kiệt nông nghiệp để dồn lực cho công nghiệp. Và Việt Nam ta bây giờ đang diễn lại đúng kịch bản đó.
– Nhưng theo tôi biết, chúng ta không có một chủ trương nào nói rằng phải dùng nông nghiệp để nuôi công nghiệp?
– Không có, nhưng thực tế đang cho thấy đúng như vậy đó. Tất cả những câu “nông dân là lực lượng cách mạng”, “nông dân là những người khởi xướng Đổi mới”, “phải biết ơn nông dân”, “phải ưu tiên phát triển hợp lý nông nghiệp”, tôi cho đều là mị dân cả.
Trên thực tế, nông nghiệp đang bị lép vế, nông dân thua thiệt đủ bề. Đó là hậu quả của việc bóc lột nông nghiệp để dồn lực cho công nghiệp hóa. Tôi nói cách khác, việc nông thôn, nông nghiệp Việt Nam bây giờ kém phát triển hoàn toàn là do cơ chế, do đường lối, quyết định của lãnh đạo mà thôi.
– Ông có cho rằng còn những nguyên nhân khác khiến nông thôn, nông nghiệp Việt Nam kém phát triển, như tình trạng đất chật người đông, trình độ và do đó, năng suất của người nông dân bị hạn chế?
– Từ kinh nghiệm chung của thế giới, tôi thấy là nếu anh làm quản lý ruộng đất tốt thì còn đất nông nghiệp tăng thêm, còn thừa đất ấy chứ. Tình trạng mất đất nông nghiệp ở ta là do đầu cơ mà ra cả. Nói sâu xa hơn thì do cách quản lý của ta là quản lý để đầu cơ.
Ngay xung quanh Hà Nội đây này, tôi biết có nhiều nơi, người ta xây những ngôi mộ giả để găm đấy, chờ khi nào chính quyền lấy đất thì sẽ được đền bù.
Bây giờ có lắm ý kiến nói tới việc tăng hạn điền cho nông dân. Tôi thì tôi cho rằng nhiều người nói vậy vì họ có quyền lợi liên quan tới việc đầu cơ ruộng đất. Hạn điền ở nước ta không thấp. Ngay Hàn Quốc cũng chỉ có 3 hécta, Nhật Bản 10 hécta. Mở rộng thêm để làm gì, chỉ tạo điều kiện cho đầu cơ phát triển thêm.
– Nhân nói về hạn điền, nhiều ý kiến đang cho rằng cần thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai, như thế mới giải phóng được sức mạnh đất đai để phát triển đất nước. Ông nghĩ về vấn đề này thế nào?
– Vấn đề sở hữu tư nhân về đất nông nghiệp cũng vậy, đang được đặt ra, nhưng theo tôi là không cần thiết. Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất còn rộng hơn quyền sở hữu đất ở Pháp.
Có tập trung ruộng đất trong tay địa chủ thì cũng không đẻ ra sản phẩm. Ở nhiều nước đang phát triển, phải tồn tại nông dân nghèo không ruộng đất thì mới có người làm thuê. Ví dụ như ở Brazil, nông dân biến thành thợ. Họ ở thành phố, hàng ngày về nông thôn làm việc rồi chiều tối lại lên thành phố.
“Có nhiều việc để làm lắm nhưng không ai giúp nông dân làm cả”
|
“Nông nghiệp là ngành mà chúng ta phải duy trì và phát triển, không phải vì lợi thế cạnh tranh nào cả, mà vì phát triển nông nghiệp là chuyện bắt buộc phải làm”.
|
– Một cách ngắn gọn, ông cho rằng các vấn đề lớn của nông dân Việt Nam hiện nay là gì?
– Thu nhập thấp, mất đất, không có việc làm. Khoảng cách thu nhập, chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn là rất lớn. Nông dân ở nông thôn không được tiếp cận rộng rãi với giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, không có tích lũy. Nhà có người ốm đi viện một lần là của cải mất hết, trắng tay. Thêm một đứa con đi học xa, học lên cao là cả nhà lao đao.
Việc làm cho nông dân là vấn đề nghiêm trọng đối với Việt Nam và cũng là vấn đề lớn với thế giới. Nhìn chung, thế giới càng công nghiệp hóa càng thừa lao động, bởi vì công nghiệp và dịch vụ sử dụng lao động ít hơn nông nghiệp. Nói cách khác, công nghiệp và dịch vụ không thể “nuốt” hết số lao động dôi dư. Thừa lao động nông nghiệp là một trong các kết quả của quá trình phát triển.
Ở ta, nông thôn thừa khoảng 50% lao động, nhưng lại không phải là kết quả của sự phát triển công nghiệp, mà do họ làm nông nghiệp thì không có đất, không làm nông nghiệp thì chẳng biết dùng họ vào việc gì.
Xuất khẩu lao động cũng chỉ là giải pháp tình thế thôi. Hiện giờ Âu châu hạn chế nhận lao động nước ngoài. Trung Cận Đông, Hàn Quốc và Malaysia bình thường vẫn nhận nhiều lao động di cư vì họ đang có nhu cầu phát triển, nhưng nay khủng hoảng, họ cũng gặp khó khăn.
Tóm lại, thất nghiệp đang là bài toán không giải quyết được ở nhiều nước. Nông dân đang phải chịu gánh nặng cho toàn xã hội. Tôi nhấn mạnh: Lao động thừa ở nông thôn là vấn đề của toàn xã hội, cho nên cả xã hội phải góp vào mà lo chứ không chỉ Bộ NN&PTNT hay Bộ LĐ&TBXH đâu.
– Có cách nào để nâng thu nhập, từ đó nâng mức sống cho người ở nông thôn không?
– Tôi cho rằng đa dạng hóa sinh kế là chìa khóa để tăng thu nhập cho nông dân. Không thể chỉ làm nông được. Nói vui, tôi biết có làng ở Nam Sách (Hải Dương), cả làng bao nhiêu hiệu làm tóc.
Thật ra, ở nông thôn, có nhiều việc lắm nhưng không ai giúp nông dân làm, không ai hướng dẫn cho họ cả. Chúng tôi đang tìm cách xây dựng một cơ chế để giúp nông dân đa dạng hóa sinh kế.
– Ví dụ như những việc gì?
– Du lịch nông thôn chẳng hạn. Việt Nam cũng đã có du lịch nông thôn, nhưng triển khai chưa tốt, trong khi nếu làm tốt, thu nhập của mỗi nông dân có thể tăng gấp đôi.
Du lịch nông thôn: dân bị coi như ăn bám
|
“Đa dạng hóa sinh kế là chìa khóa để tăng thu nhập cho nông dân”.
|
– Du lịch nông thôn chưa được làm tốt, điều đó thể hiện như thế nào?
– Ví dụ ở Sapa có nhiều các điểm du lịch bán vé, nhưng tiền bán vé chính quyền và doanh nghiệp đầu tư hưởng hết, dân địa phương chẳng được gì. Dân bị coi như kẻ ăn bám vào du lịch ở địa phương, ngày ngày sống nhờ bán đồ lặt vặt cho khách.
Họ không được tham gia vào hoạt động du lịch nông thôn ở địa phương, trong khi nếu hoạt động này phát triển và thu hút họ thì sẽ bảo vệ được cả văn hóa lẫn sinh thái, môi trường địa phương.
Tôi còn được biết, ở Huế, nhiều nhà vườn đóng cửa với khách du lịch, bởi vì họ chẳng thu được gì, tour du lịch lấy hết rồi.
Ở Hội An, tôi hỏi dân sao không tổ chức kinh doanh du lịch bằng cách cho khách thuê nhà dân ở, kiểu “home-stay”, họ bảo không được phép. Chính quyền yêu cầu nếu dân làm “home-stay” thì phải đảm bảo trang thiết bị vệ sinh, máy điều hòa. Như thế, tiền đâu mà nông dân làm?
Ở Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), có nhiều vùng cây ăn trái, tour du lịch đưa khách đi thăm, nhưng khách chỉ ngắm thôi chứ có mua về được đâu, làm sao bảo quản được mà mang về. Thế nên dân đem trái cây ra chợ bán còn thu được tiền hơn.
– Nhưng các doanh nghiệp kinh doanh cũng cần có lãi chứ. Ông đang nói về “du lịch nông thôn”, thì trong kinh doanh nông nghiệp cũng vậy, nhiều khi tư thương ở cái thế có thể ép giá nông dân. Tôi nghĩ vấn đề ở đây là làm sao để có sự phân phối công bằng hơn. Ông nghĩ sao về điều đó?
– Ở Pháp, doanh nghiệp mua súp lơ của nông dân với giá 1 Franc (đồng nội tệ của Pháp trước khi chuyển sang sử dụng Euro), rồi đến khi vào siêu thị, giá súp lơ đã tăng lên 12 Franc. Như thế là bóc lột nông dân lắm.
|
“Có nhiều việc để làm lắm nhưng không ai hướng dẫn nông dân làm cả”. GS.VS. Đào Thế Tuấn cho rằng phát triển xã hội dân sự chính là cơ chế để hướng dẫn người nông dân đa dạng hóa sinh kế.
|
Nông dân Pháp bèn lập chợ nông thôn ngay giữa thủ đô Paris để bán hàng trực tiếp tới tay người tiêu dùng, tránh được hệ thống thu mua ở giữa.
Tôi thấy các nước tiên tiến bây giờ người ta tẩy chay hệ thống doanh nghiệp buôn bán. HTX chiếm 50% công việc, tư thương chiếm 50% lĩnh vực phân phối nông sản là tốt nhất.
Theo tôi, doanh nghiệp chỉ nên thực hiện khâu chế biến cao cấp, còn thu gom, buôn bán, nông dân tự làm được. Có như thế, doanh nghiệp mới mất thế độc quyền.
Chứ như bây giờ ở ta, nông dân không có quyền mặc cả với tư thương. ĐBSCL chẳng hạn, nông dân trồng lúa chất lượng cao hơn trước nhưng giá bán ra thì vẫn như thế.
– Vậy, tôi xin mượn lời một danh hài, “thế thì người nông dân phải làm gì”?
– Vấn đề quan trọng nhất của phát triển là phải có sự tham gia của cộng đồng, của người dân.
Các tổ chức phi chính phủ đến Việt Nam đều nói rằng nông thôn Việt Nam không có cộng đồng.
Tôi nghĩ không hoàn toàn như vậy.
Ngày xưa, chúng ta đã có cộng đồng làng xã, thôn xóm đấy thôi, mà đại diện là những lý trưởng, xã trưởng.
Bây giờ thì chỉ còn mấy ông bà cán bộ – ông bí thư, chủ tịch xã, chủ tịch hợp tác xã, bà tổ trưởng phụ nữ… Người dân chẳng được tham gia gì cả.
Chúng ta cần phải hướng dẫn, phải tạo cơ chế để giúp nông dân tổ chức lại được với nhau, xây dựng các doanh nghiệp xã hội (social entrepreneur). Nhà nước không thu thuế đối với họ. Dĩ nhiên, họ cũng có một mức lãi nào đó, nhưng về bản chất, họ là một hệ thống các tổ chức chăm lo phát triển xã hội. Hệ thống đó là một phần của xã hội dân sự.
Không thể chỉ dựa vào việc kêu gọi các doanh nghiệp tham gia hoạt động từ thiện, cần có một đường lối xã hội hóa công cuộc cải cách kinh tế xã hội, không lẫn lộn xã hội hóa với thị trường hóa và tư nhân hóa. Xã hội hóa là huy động sự tham gia của xã hội, của quần chúng.
Tóm lại, điều quan trọng chúng ta cần làm ở nông thôn bây giờ là xây dựng xã hội dân sự.