Welcome to BEAR’s BLOG!!!

Archive for the ‘Opinions’ Category

Ngày 8 tháng 9 năm 2011 – Cải cách toàn diện để phát triển đất nước

Posted by BEAR trên Tháng Mười 27, 2011

Việt Nam sẽ nằm trong top 4 nước lạm phát cao của thế giới? Lạm phát năm 2011 dự báo 18,98%

 Đáng chú ý, theo Ủy ban Kinh tế, tỷ lệ lạm phát chung của Việt Nam năm 2011 (so với tháng 12.2010) được dự báo sẽ ở mức khá cao: 18,98%. Tuy nhiên, tùy theo tình hình thực hiện Nghị quyết 11, cộng với việc thúc đẩy ưu đãi tín dụng cho vay đối với sản xuất lương thực và thực phẩm, cũng như kịch bản kiểm soát tăng trưởng tín dụng dưới 17%, tổng phương tiện thanh toán không vượt quá 12% và nỗ lực kiềm chế điều chỉnh tăng giá điện cho đến hết năm 2011, mà lạm phát của Việt Nam sẽ biến thiên từ 17 – 21% với độ tin cậy 70%.

Tương ứng với đó, tỷ lệ lạm phát cơ bản (đã loại trừ nhóm lương thực, thực phẩm và năng lượng) của Việt Nam năm 2011 dự báo ở mức 9,45% so với thời điểm tháng 12.2010 (biến thiên từ 9 – 9,9% với độ tin cậy 70%).

Nhận định trên xuất phát từ chỉ số lạm phát biến động theo hằng năm. Cụ thể là nếu như năm 2001, Việt Nam có vị trí xếp hạng khá an toàn và rất thấp (152/182 nước) thì đến năm 2007 đã tăng vọt lên vị trí thứ hạng khá rủi ro (27/182 nước), rồi tiếp tục tăng nhanh lên mức đáng báo động cao vào năm 2008 (xếp hạng 14/182 nước) và chỉ giảm nhẹ vào năm 2010 (đứng thứ 17/182 nước).

Cũng theo Ủy ban Kinh tế, trong 8 tháng đầu năm 2011, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam vẫn ở mức rất cao khiến các tổ chức quốc tế như UNDP, vào tháng 5.2011, đã xếp hạng Việt Nam vào trong nhóm 5 nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ lạm phát tăng cao, tiếp đó là đến cuối tháng 8.2011, Việt Nam tiếp tục dẫn đầu châu Á và đứng thứ 2 trên thế giới về tỷ lệ lạm phát tăng cao so với thời điểm cùng kỳ năm trước.

“Mặc dù tỷ lệ lạm phát của Việt Nam so với tháng 12.2010 sẽ có xu hướng giảm tốc và đạt mức dự báo khoảng 19% vào cuối năm 2011 song con số này quả thực vẫn sẽ đưa Việt Nam vào nhóm 4 nước dẫn đầu trên thế giới về lạm phát tăng cao vào cuối năm 2011. Điều đó cho thấy tồn tại nguy cơ tiềm ẩn rủi ro khá cao về bất ổn kinh tế vĩ mô ở Việt Nam”, Ủy ban Kinh tế nhận định.

Cải cách lương công chức, viên chức từ 2003 đến nay: Lương không đủ sống, công chức tìm cách ‘xoay’ (VNN 25-10-11)


Ngày 8 tháng 9 năm 2011  – Cải cách toàn diện để phát triển đất nước

Lời giới thiệuVăn bản dưới đây được soạn thảo trong mùa hè vừa qua, khi Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Là người Việt Nam, không ai không khỏi giật mình tự đặt câu hỏi: làm sao đối phó với hiểm họa ngoại xâm khi nội lực của chúng ta đang có nhiều vấn đề đáng lo ngại: kinh tế bấp bênh, giáo dục và y tế xuống cấp, khoa học và công nghệ non yếu, đạo đức xã hội suy đồi, tham nhũng tràn lan, bộ máy nhà nước thiếu hiệu quả. Qua trao đổi giữa các đồng nghiệp trong giới đại học và nghiên cứu làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, văn bản này được viết ra, nhằm phân tích những yếu kém của nội lực Việt Nam và đề nghị những biện pháp cải cách. Xuất phát từ nhiều chỗ đứng khác nhau, nhưng cùng bức xúc như nhau trước tình hình nghiêm trọng của đất nước, những người soạn thảo đã làm việc trên tinh thần đồng thuận. “Bản Ý Kiến” này là kết quả của vài trăm điện thư trao đổi, đúc kết nhiều quan điểm khác nhau để đi đến một “mẫu số chung”: Sự cần thiết của cải cách thể chế, con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để tăng cường nội lực, thực hiện đoàn kết, bảo vệ đất nước, và phát triển bền vững. 

Văn bản này không phải là một bản kiến nghị, cũng không phải đưa ra để lấy chữ ký, mà cốt chia sẻ suy nghĩ về cải cách toàn diện để phát triển đất nước. Văn bản đã được gửi đến các ủy viên trong Bộ Chính trị cách đây khoảng một tháng và đến Quốc hội cùng Chính phủ gần đây hơn. Nay xin trân trọng gửi đến bạn đọc.

Ngày 8 tháng 9 năm 2011 

  

Ý kiến chúng tôi:

Cải cách toàn diện để phát triển đất nước

Các tác giả:

 

Hồ Tú Bảo, Nguyễn Tiến Dũng, Trần Hữu Dũng, Giáp Văn Dương,

Nguyễn Ngọc Giao, Ngô Vĩnh Long, Vĩnh Sính, Nguyễn Minh Thọ,

Trần Văn Thọ, Cao Huy Thuần, Nguyễn Văn Tuấn, Hà Dương Tường,

Vũ Quang Việt, Phạm Xuân Yêm

 

 

Nội dung

 

 Tóm tắt

A. Mở đầu

B. Việt Nam nhìn từ thế giới bên ngoài

C. Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân

1. Về kinh tế

2. Về văn hóa

3. Về giáo dục

4. Về y tế

5. Về khoa học và công nghệ

6. Về quan hệ đối ngoại

7. Tổng kết: Đâu là những nguyên nhân sâu xa?

D. Cải cách vì một nước Việt Nam giàu mạnh và tự chủ

1. Cải cách thể chế là quan trọng nhất

2. Củng cố bộ máy nhà nước

3. Về chiến lược, chính sách phát triển kinh tế

4. Về văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và công nghệ

5. Chiến lược đối ngoại

E. Kết luận

Tóm tắt

Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch sử. Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, chúng tôi thật sự lo âu về tương lai của đất nước. Bản ý kiến này không nêu lại những thành tựu Việt Nam đã đạt được, mà tập trung vào vấn đề nội lực Việt Nam đang suy yếu: Kinh tế bấp bênh, giáo dục và y tế xuống cấp, khoa học và công nghệ non yếu, đạo đức xã hội suy thoái, tham nhũng tràn lan, bộ máy nhà nước nhiều bất cập. Trong lúc đó, kinh tế ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và đe dọa về an ninh từ nước láng giềng phương Bắc ngày càng rõ nét.

Năm 2008 lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp. Nhưng ta đã mất gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần một thế hệ mới đạt được thành quả còn khiêm tốn này. Trong cùng thời gian đó, nhiều nước ở châu Á đã đạt thành quả được cả thế giới ngưỡng mộ. So với các nước trong vùng và trên thế giới có cùng điều kiện phát triển trước đây, nước ta hiện nay vẫn còn ở vị trí rất thấp trong hầu hết mọi lĩnh vực, từ kinh tế, giáo dục đến khoa học. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra vẫn còn rất xa. Hiện nay chưa có dấu hiệu cho thấy Việt Nam có thể đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.

Khi phân tích vấn đề, chúng tôi thấy có hai nguyên nhân sâu xa, liên quan đến thể chế nói chung, và cơ chế tuyển chọn người lãnh đạo và quản lý nhà nước nói riêng.

Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng thể chế hiện nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội kiểu Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư tưởng, thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng động và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được suy thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều công chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa học,… không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn có từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh của đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.

Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong thành phần lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách nhiệm cao và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung ương đến địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết. Tình trạng bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối. Việc lợi dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến ở nhiều cán bộ nhà nước.

Theo chúng tôi, phải có một cuộc cải cách mang tính cách mạng về thể chế mới giải quyết được hai vấn đề này. Chúng tôi nghĩ rằng trách nhiệm này trước hết thuộc về đảng cầm quyền và trên thực tế hiện nay cũng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đảm nhận được vai trò này.

Vì vậy, chúng tôi đề nghị Đảng Cộng sản Việt Nam xem xét thực hiện 8 điểm sau:

1. Kiên quyết xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền.

Không có ai và tổ chức nào đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Để thực hiện được điều này, cần triệt để tôn trọng Hiến pháp và đảm bảo sự thực thi Hiến pháp theo tinh thần hiến pháp là trên hết. Đồng thời, cần có cơ chế kiểm soát quyền lực, cần có hệ thống tòa án độc lập để chế tài được các hành vi lạm dụng quyền hành, tham nhũng, làm giàu bất chính và ức hiếp dân chúng.

Triệt để dân chủ hóa, đúng như mục tiêu mà Hiến pháp đề ra. Đảng cần chứng minh bằng hành động thực tế rằng đó không phải là khẩu hiệu mà chính là thao thức thường xuyên của lãnh đạo, của các cơ quan công quyền. Để thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp lý hiện nay, cần thật sự triển khai và áp dụng nội dung của Hiến pháp. Trước hết, phải thật sự tôn trọng các quyền mà Hiến pháp đã ghi rõ, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, và được quyền lập hội, quyền biểu tình trong khuôn khổ pháp luật, và quyền bình đẳng trước pháp luật.

Pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do của người này không xâm phạm đến quyền tự do của người khác chứ không phải nhằm hạn chế hoặc triệt tiêu tự do. Tất nhiên, tự do cá nhân phải tôn trọng lợi ích tập thể, nhưng không nên viện lợi ích tập thể với mục đích triệt tiêu tự do. Cụm từ “theo quy định của pháp luật” phải được hiểu trong tinh thần đó để các quyền được Hiến pháp công nhận có giá trị thực sự chứ không phải chỉ có tính cách lý thuyết. Hiện nay, không thiếu thí dụ luật được viết nhằm hạn chế quyền công dân được ghi trên Hiến pháp. Thí dụ điển hình là luật bầu cử và Quyết định 97. Luật bầu cử hạn chế quyền ứng cử của công dân vì đòi hỏi người tự ứng cử phải được Mặt trận Tổ quốc thông qua. Quyết định 97 của Thủ tướng nhằm hạn chế quyền phản biện chính sách của trí thức. Thật ra, tất cả các quyền của công dân đều đã nằm trong Hiến pháp Việt Nam, chỉ cần triển khai và thật sự áp dụng.

Cần bảo đảm nền móng của dân chủ: đó là tự do ngôn luận. Quyền tự do ngôn luận mà Hiến pháp đã ghi rõ cần đi vào thực chất với việc bảo đảm tính công khai và minh bạch của các hoạt động công quyền và quyền tranh luận của xã hội và công dân đối với những hoạt động đó. Những hạn chế cần thiết của tự do ngôn luận, như các bí mật quốc gia (thuộc phạm vi hình sự) hay bí mật kinh doanh, đời tư của công dân (dân sự), phải được ghi rõ trong các đạo luật (được quốc hội thông qua) chứ không phải là qua các nghị định, quyết định của hành pháp.

2. Tiếp thu các tư tưởng tiến bộ nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Không nên tự ràng buộc vào một ý thức hệ duy nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh nếu chỉ biết học thuyết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ của thế giới thì đã không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém những giá trị phổ quát của nhân loại. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là rất hợp lòng dân. Các hệ tư tưởng là công cụ nhằm giúp đạt mục tiêu trên. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy một xã hội muốn phát triển cần có tự do tư tưởng và tự do ngôn luận do đó cần thoát khỏi sự ràng buộc vào một ý thức hệ duy nhất. Ra khỏi sự ràng buộc vào ý thức hệ đó cũng sẽ cho thấy Việt Nam độc lập với Trung Quốc về mặt tư tưởng và đi trước Trung Quốc về cải cách thể chế.

3. Xây dựng một nhà nước vững mạnh bằng cách minh bạch hóa việc bổ nhiệm các chức vụ cao cấp, thực hiện việc tuyển chọn công chức theo qui trình khách quan dựa trên khả năng, cải cách chế độ tiền lương cho hợp lý.

Nêu cao trách nhiệm cá nhân trong hệ thống công quyền. Tất cả công chức và người lãnh đạo trong hệ thống nhà nước phải chịu trách nhiệm cá nhân về nhiệm vụ của mình, không được ẩn náu dưới danh nghĩa trách nhiệm tập thể. Cơ chế tập trung dân chủ khi đem áp dụng trong việc điều hành chính phủ đã bị nhiều người lợi dụng để bao biện cho thói vô trách nhiệm, ỷ lại, đổ lỗi cho tập thể, cơ hội, bè phái, “cha chung không ai khóc”. Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế tách bạch sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước để tránh sự chồng chéo, áp đặt, kém hiệu quả.

Minh bạch hóa trong bổ nhiệm tất cả các chức vụ, kể cả vị trí cao cấp. Tạo cơ chế công khai và dân chủ hóa để có thể tuyển chọn những nhà lãnh đạo tài đức và đáp ứng được đòi hỏi của dân tộc, được dân tin tưởng và được thế giới nể trọng. Không nên tiếp tục cách làm hiện nay là dàn xếp trong nội bộ Đảng rồi đưa ra Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm. Những người đủ tài đức nhưng không phải đảng viên cũng cần được xem xét bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng. Chính phủ Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng tám cũng đã có phương châm này.

Xây dựng bộ máy công chức làm việc có trách nhiệm và hiệu quả, và có cơ chế tuyển chọn khách quan dựa trên tài năng chuyên môn. Hiệu suất của bộ máy công quyền là điều kiện tối cần thiết để kinh tế, giáo dục, văn hóa phát triển nhanh và lành mạnh. Cho nên, việc tuyển chọn công chức phải dựa trên tiêu chí chuyên môn và đạo đức, độc lập với quan điểm chính trị ở nhiều loại công việc.

Cải cách chế độ tiền lương nhằm bảo đảm người công chức có thể sống bằng đồng lương của mình. Công chức phải được bảo đảm sống bằng đồng lương để tập trung vào công việc. Chế độ tiền lương cần hợp lí và phù hợp với khả năng, cống hiến thực của công chức để có thể thu hút được những người có khả năng nhất trong xã hội vào bộ máy công quyền. Đây là một trong những vấn đề cốt lõi cần đặt thành mục tiêu ưu tiên phải thực hiện ngay.

4. Phát triển kinh tế theo hướng bền vững trong đó ưu tiên hàng đầu là tạo công ăn việc làm và nhanh chóng cải cách việc điều hành và quản lý doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn kinh tế.

Về việc phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động cần được đặt thành ưu tiên hàng đầu. Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn.

Đề nghị lập một hội đồng tư vấn chiến lược phát triển để giúp chính phủ vạch ra chiến lược phát triển có trọng điểm, không dàn trải và dẫm chân lên nhau, kết hợp thỏa đáng lợi ích quốc gia và lợi ích vùng nhằm phát triển nền kinh tế có chất lượng. Hội đồng này tập trung những chuyên gia có trình độ, có chức năng xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh nhân và trí thức. Bộ phận chuyên trách này sẽ có tiếng nói quan trọng trong việc quyết định các dự án lớn, trong quy hoạch phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng.

Cải cách chế độ sở hữu ruộng đất và tạo cơ hội có việc làm ngoài nông nghiệp là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn. Cần có chiến lược về đất đai, qui hoạch rõ rệt các vùng chuyên canh nông nghiệp và vùng có thể phát triển công nghiệp, cải cách để xác định rõ đâu là đất tư hữu và đâu là đất công hữu, tiến tới xóa bỏ hẳn chính sách coi đất đai là sở hữu toàn dân như hiện nay. Tư hữu hóa sẽ là cơ sở để giải quyết việc tập trung ruộng đất manh mún hiện nay để thực hiện sản xuất lớn nông nghiệp và phục vụ công nghiệp hóa nông thôn. Mặt khác, như nhiều người đã chỉ ra, đất đai là một nguồn tham nhũng rất lớn, gây hàng ngàn vụ khiếu kiện của dân trong những năm qua, tệ nạn này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu người dân trên nguyên tắc được toàn quyền sở hữu (thay vì chỉ có quyền sử dụng) đất đai của mình.

Cần xóa bỏ chế độ hộ khẩu để người dân khi đến đô thị làm việc có thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông thôn.

Cần nhanh chóng cải cách việc điều hành và quản lý doanh nghiệp quốc doanh đặc biệt là các tập đoàn kinh tế. Thời gian qua tập đoàn kinh tế đã trở thành nơi hội tụ của các nhóm lợi ích và người có quyền chức, gây ra bất ổn cho nền kinh tế và tình trạng tham nhũng bành trướng. Vì thế, cần đặt các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, trong khung pháp lý chung của luật pháp; xóa bỏ việc hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh và thay vào đó là Hội đồng quản trị độc lập có nhiệm kỳ, do Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân bổ nhiệm, nhằm tránh biến tập đoàn thành một phần của các nhóm lợi ích. Ngoài ra, cần xóa bỏ các ưu đãi đặc biệt (về tín dụng, thuế, bảo lãnh nợ,…) cho doanh nghiệp quốc doanh; và không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và  ngoài quốc doanh.

5. Ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo đức xã hội.

Văn hóa và đạo đức xã hội đang xuống cấp nghiêm trọng. Kỷ cương phép nước và nhân phẩm của con người đang bị coi thường. Chưa bao giờ cái xấu, cái giả và cái ác, biểu hiện ở nhiều dạng nhiều mặt, lại xuất hiện nhiều như bây giờ. Các giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại chưa kịp nuôi dưỡng và bén rễ thì đã bị những cái xấu, cái giả lấn át. Thói háo danh, hình thức phô trương, mê tín dị đoan lại càng được dịp lên ngôi. Vì thế, cần quảng bá, khuyến khích những giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, bác ái, pháp quyền… và khôi phục những tinh hoa văn hóa truyền thống để làm nền tảng cho mọi sinh hoạt của xã hội. Cần nghiêm khắc xử lý cán bộ ở các cấp cao khi có hiện tượng sai phạm đạo đức để làm gương. Đặc biệt quan trọng là việc sử dụng hiệu quả vai trò tích cực của công luận để phê phán và ngăn chặn sự suy thoái của đạo đức và văn hóa.

 

6. Thực sự làm cho giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.

Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Vì thế, chiến lược phát triển cần phải xây dựng theo hướng chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực ngày càng có kỹ năng và khả năng làm chủ công nghệ cao. Chiến lược phát triển cũng cần phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng nhiều hơn nữa. Do đó, phải có biện pháp hiệu quả nhằm cụ thể hóa các chính sách về giáo dục, khoa học và công nghệ. Đồng thời, lãnh đạo phải cho thấy quyết tâm chăm lo sức khỏe của người dân qua các cải cách về y tế.

Cần tránh chính trị hóa học đường. Thay vào đó, cần giáo dục đạo đức, khích lệ tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân, và ý chí phấn đấu của tuổi trẻ. Điều tối quan trọng là cần đảm bảo tự do học thuật, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo.

Do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của giáo dục, chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn.

7. Thực hiện đoàn kết dân tộc

Chấp nhận và dung hòa với những người bất đồng chính kiến nhưng cùng mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt trước những diễn biến phức tạp và nguy hiểm ở biển Đông, hòa hợp hòa giải dân tộc cũng có nghĩa là cổ vũ lòng yêu nước của mọi người dân không phân biệt chính kiến, quá khứ. Chúng tôi đặc biệt đề nghị nên có hình thức ghi nhận và biểu dương sự dũng cảm hy sinh của những quân nhân Việt Nam Cộng hòa bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.

8. Triển khai một đường lối ngoại giao độc lập, dựa trên một thể chế dân chủ, chú trọng hơn đến quan hệ chiến lược với ASEAN và Hoa Kỳ, trong khi tiếp tục coi trọng quan hệ hữu nghị và bình đẳng với Trung Quốc.

Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc cần được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn bình đẳng, nhưng không xem đó là quan hệ đặc biệt, càng không thể coi đó là đồng chí tốt. Việt Nam không thể “hợp tác toàn diện” với một nước lớn và mạnh hơn mình hàng chục lần và có những quan hệ phức tạp về lịch sử và địa chính trị, nhất là đang thể hiện rõ tham vọng và đã có những hành động bành trướng, xâm hại chủ quyền và an ninh quốc gia của Việt Nam.

Về Biển Đông, Quốc hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo đặc biệt về Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, khẳng định đó không phải là sự thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Tuyên cáo này vừa để làm rõ quan điểm của Việt Nam trước dư luận quốc tế, vừa xóa bỏ những ngờ vực của không ít người Việt Nam ở trong và ngoài nước, góp phần tăng thêm tình đoàn kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm.

Cần đoàn kết với Philippines, Malaysia và Brunei trong việc chống lại tuyên bố “Đường Lưỡi Bò” của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt Nam đưa ra đề án với ASEAN đặt tên vùng biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và nhiều nước gọi là biển Nam Trung Hoa) là Biển Đông Nam Á.

Trước bước ngoặt lịch sử của đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam mang một trách nhiệm nặng nề đối với tiền đồ dân tộc. Chúng tôi mong thấy một cuộc cách mạng mới về thể chế để Việt Nam có thể phát triển thành một nước giàu mạnh và tự chủ.

Trở lại mục lục


A. Mở đầu

Việt Nam chúng ta đang đứng ở đâu trên bản đồ kinh tế và trên cục diện chính trị của khu vực và thế giới? Đất nước chúng ta sẽ thụt lùi về nhiều mặt, hay là sẽ phát triển mạnh mẽ, bền vững, đáp ứng khát vọng của dân tộc là mong thấy một nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển hài hòa với thiên nhiên và xã hội, chia sẻ được những giá trị phổ quát của thế giới văn minh và giữ vững độc lập về kinh tế, chính trị, văn hóa? Nền tảng xã hội, văn hóa, giáo dục và thể chế của ta hiện nay có tạo đủ những điều kiện cơ bản để đất nước phát triển theo hướng tích cực không?

Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, chúng tôi thật sự lo âu khi thử trả lời những câu hỏi nêu trên.

Từ gần 20 năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục tiêu phát triển đất nước là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là mục tiêu đúng đắn, có giá trị phổ quát và nước nào cũng muốn nhắm tới. Thế nhưng, hiện thực cho thấy Việt Nam không luôn tiến được theo hướng đó, nếu không nói là trên nhiều mặt Việt Nam đã đi ngược lại. Một bộ phận nhỏ giàu một cách bất hợp pháp, sinh hoạt xa hoa trong khi đa số dân chúng hằng ngày phải vật lộn với cơm áo, với chi phí cho giáo dục, y tế trong cơn lạm phát. Tham nhũng ngày càng trầm trọng, len lách vào mọi ngõ ngách của xã hội làm ảnh hưởng đến ý chí phấn đấu, tinh thần hướng thượng của người dân, và ngày càng có nhiều trường hợp công chức làm mất thể diện quốc gia. Bộ máy công quyền ở các cấp nổi lên quá nhiều người thiếu cả tài lẫn đức đến nỗi một lãnh đạo cấp cao của Đảng phải thừa nhận là bây giờ có quá nhiều “sâu”. Do tham nhũng, thiếu người tài đức gánh vác việc nước nên bộ máy nhà nước có nhiều bất cập. Tiếng nói của trí thức, của các nhà báo chân chính ngày càng mất hiệu quả. Đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng, bắt đầu lan tràn vào cả trong học đường, trong viện nghiên cứu khoa học, là những nơi lẽ ra phải đi đầu về đạo đức.

Năm 1996 Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa, chủ trương phấn đấu làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Từ đó đến nay đã 15 năm, đã đi gần 2/3 đoạn đường dự định mà cái đích còn quá xa vời. Việt Nam chưa có được một ngành công nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới. Chúng ta chủ yếu vẫn còn xuất khẩu hàng công nghiệp gia công, dùng nhiều lao động giản đơn và tùy thuộc sản phẩm trung gian nhập khẩu. Doanh nghiệp nhà nước nhất là tập đoàn kinh tế được dành mọi ưu đãi về vốn và đất nhưng cho đến nay chẳng những không đóng được vai trò chủ đạo như nhà nước chủ trương mà còn gây ra gánh nặng nợ nần và bất ổn cho toàn nền kinh tế.

Nền kinh tế yếu cùng với bộ máy nhà nước nhiều bất cập đã đưa đến một hậu quả nghiêm trọng là Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc. Về kinh tế thì đã quá rõ: Hàng công nghiệp của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, nhập siêu từ Trung Quốc cao ở mức dị thường, vừa gây bất ổn kinh tế vĩ mô vừa cản trở khả năng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Doanh nghiệp Trung Quốc chiếm phần lớn các gói thầu xây dựng, mua quyền sử dụng lâu dài rừng và  bờ biển Việt Nam, đưa lao động vào Việt Nam dưới nhiều hình thức – kể cả bất hợp pháp – và nhiều nơi hình thành cộng đồng người Hoa mới… Về chính trị và tư tưởng, tuy không rõ ràng và dễ nhận biết như trong kinh tế, nhưng sự phụ thuộc là có. Cũng vì gắn bó với Trung Quốc về ý thức hệ, về thể chế chính trị mà ta không triển khai được đường lối ngoại giao khôn ngoan hiệu quả, không tận dụng được sức mạnh thời đại để làm cho dân giàu nước mạnh. Chẳng những thế, lệ thuộc về kinh tế và ngoại giao sẽ dễ dàng dẫn đến việc mất chủ quyền. Điều này đưa đến một thực tế nghiêm trọng: An ninh quốc gia bị đe dọa!

Từ tháng 5 năm nay (2011), vấn đề biển Đông trở nên nổi cộm. Ảnh hưởng của Trung Quốc đến an ninh của ta đã thấy rõ. Thật ra, chuyện Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông lần này không đáng lo bằng sự thâm nhập của họ ngày càng mạnh và sâu vào kinh tế, chính trị và văn hóa của ta. Khi kinh tế ta yếu, bộ máy nhà nước yếu, nền tảng đạo đức xã hội lung lay, Trung Quốc có thể thực hiện được mục tiêu biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc toàn diện vào họ.

Chúng tôi, những người có tên trong danh sách dưới đây, vô cùng lo lắng, bức xúc trước nguy cơ Việt Nam bị thụt lùi trong tiến trình phát triển của thế giới mà hậu quả là Việt Nam có thể mất độc lập và tự chủ dưới hình thức này hay hình thức khác. Để tránh nguy cơ này, Đảng Cộng sản Việt Nam, với trọng trách đối với tiền đồ của đất nước, cần cải cách và triệt để đổi mới thể chế, nhằm củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc, tận dụng thời cơ quốc tế, để mở ra con đường phát triển mới cho đất nướcNhững nhận định về thực trạng và đề nghị cải cách dưới đây là xuất phát từ bức xúc về nguy cơ hiện nay đối với Việt Nam và ước vọng của chúng tôi về một nước Việt Nam thực sự giàu mạnh, văn minh và tự chủ. Chúng tôi tin rằng, đây cũng chính là ước vọng của toàn dân Việt Nam nói chung.

 Trở lại mục lục

B. Việt Nam nhìn từ thế giới bên ngoài

Nhìn kinh tế thế giới trong nửa thế kỷ gần đây ta thấy nhiều nước, nhất là những nước ở châu Á, đã phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước, thậm chí có nước đã tiến lên ngang hàng với các nước tiên tiến. Có mấy khi chúng ta xét xem một cách khách quan, nghiêm túc những yếu tố cơ bản, những đặc trưng chung nhất làm cho các nước ấy thành công? Cho đến nay, Việt Nam có nghiên cứu kinh nghiệm các nước nhưng chủ yếu là những chính sách, chiến lược cụ thể, còn những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền tảng văn hóa, giáo dục…, tức là những tiền đề để cho các chính sách, chiến lược cụ thể ấy thành công, thì hầu như không được chú trọng nghiên cứu, hoặc có nghiên cứu nhưng không được thực thi, áp dụng.

Ta thử lấy trường hợp Hàn Quốc làm thí dụ: Hàn Quốc vào đầu thập niên 1960 là nước kém phát triển nhưng sau đó vượt qua giai đoạn phát triển ban đầu và thành công trong giai đoạn phát triển bền vững, trở thành nước tiên tiến trong thời gian rất ngắn. Quá trình công nghiệp hóa của nước này bắt đầu từ năm 1961 nhưng chỉ sau một thế hệ, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát triển đáng kể trên thế giới và đến năm 1996 được kết nạp vào Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) là tổ chức của các nước tiên tiến. Từ một nước nhận viện trợ nhiều vào các thập niên 1960 và 1970, Hàn Quốc bắt đầu chuyển sang vị trí của nước đi viện trợ từ cuối thập niên 1980. Hiện nay, nhiều công ty của Hàn Quốc trong các ngành công nghệ cao như điện tử, xe hơi đã vươn lên hàng đầu thế giới.

Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về sự thành công của Hàn Quốc ta có thể nêu lên mấy nguyên nhân chính. Thứ nhất là tố chất của người lãnh đạo. Đó là những nhà chính trị mà tinh thần yêu nước vượt qua những niềm tin ý thức hệ, luôn trăn trở về con đường đưa đất nước đuổi kịp các nước tiên tiến. Họ cũng là những người thức thời, biết học hỏi ở đâu, tham khảo thể chế, cơ chế nào và du nhập công nghệ gì để phát triển nhanh. Và họ cũng biết rằng để xây dựng chiến lược phát triển trên cơ sở hiểu rõ nội lực và ngoại lực không thể không dựa vào người tài thật sự. Bởi vậy, chung quanh lãnh đạo toàn người tài giỏi, nhất là nhiều người đã du học và làm việc ở các nước tiên tiến. Thứ hai, với ý thức rằng bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao mới vạch ra được các chính sách cụ thể và thực thi có hiệu quả các chính sách ấy, Hàn Quốc từ rất sớm đã có cơ chế thi tuyển công chức nghiêm ngặt để có được đội ngũ quan chức tài giỏi, mang trong mình sứ mệnh lo việc nước. Thứ ba, trong quá trình phát triển, Hàn Quốc xây dựng được quan hệ lành mạnh, hiệu quả giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước yểm trợ để doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới nhưng có cơ chế để doanh nghiệp không ỷ lại vào nhà nước như buộc doanh nghiệp phải có thành quả xuất khẩu mới tiếp tục được hỗ trợ. Thứ tư, giáo dục, nghiên cứu khoa học và công nghệ được quan tâm hàng đầu. Vào giữa thập niên 1980, nghĩa là chỉ sau khoảng 25 năm từ khi bắt đầu quá trình phát triển, Hàn Quốc đã có những đại học, những viện nghiên cứu đạt chất lượng thuộc đẳng cấp quốc tế.

Những đặc trưng trên hầu như xuyên suốt trong quá trình phát triển, kể cả giai đoạn đầu, dưới thể chế độc tài chính trị (1961-1987). Hàn Quốc không phải không có tham nhũng, nhưng không tràn lan trong xã hội mà chỉ giới hạn ở một vài chính trị gia và một số ít tập đoàn kinh tế. Đặc biệt hầu như không có hiện tượng bòn rút của công, rút ruột công trình xây dựng, càng không dám lạm dụng, lãng phí tiền viện trợ.

Trong 50 năm qua, những nền kinh tế khác tại châu Á phát triển nhanh trong thời gian dài như Đài Loan, Malaysia, Thái Lan cũng đều có những đặc trưng giống Hàn Quốc, tuy nội dung chi tiết có khác và thành quả ít ấn tượng hơn.

Bây giờ nhìn lại trường hợp Việt Nam. Năm 2008, lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới. Nhưng ta đã mất gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần một thế hệ mới đạt được thành quả khiêm tốn đó. Mặt khác, cơ chế, chính sách trong thời gian qua, đặc biệt trong 4-5 năm gần đây, đã làm cho kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào vốn, hiệu quả đầu tư giảm và kéo theo lạm phát, lãng phí. Chất lượng phát triển cũng giảm nghiêm trọng: môi trường xuống cấp, phân hóa giàu nghèo tăng nhanh. Từ thành quả khiêm tốn và chất lượng phát triển thấp này, liệu từ nay Việt Nam có thể bắt đầu giai đoạn phát triển bền vững và kéo dài trong nhiều thập niên để thực sự có dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, có vị trí xứng đáng trong khu vực châu Á và trên thế giới?

Cũng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, tính theo giá năm 2009, thu nhập đầu người 4.000 USD là cái mốc của nước thu nhập trung bình cao và 12.000 USD là mốc vượt lên hàng các nước thu nhập cao. Ở châu Á, Hàn Quốc từ một nước nghèo đã vươn lên hàng các nước thu nhập cao chỉ trong 4 thập niên (thu nhập đầu người năm 2009 là 17.000 USD). Malaysia (7.000 USD) và Thái Lan (4.000 USD) đang nỗ lực tạo điều kiện để trở thành nước tiên tiến, có thu nhập cao trong vòng hai thập niên tới.

Chỉ kể từ thời kỳ sau đổi mới, Việt Nam đã nhận viện trợ gần 20 năm rồi mà chưa thấy lãnh đạo Việt Nam đưa ra kế hoạch tới bao giờ sẽ không còn nhận viện trợ. Ngược lại, ở Hội nghị các nhà tài trợ mới đây, chính phủ còn nhấn mạnh Việt Nam vẫn là nước nghèo, cần thế giới tiếp tục quan tâm, giúp đỡ! Sang Seoul gặp sinh viên ta đang du học ở đấy sẽ nghe họ buồn rầu nói về hình ảnh Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong khoảng 95.000 người Việt Nam tại đây thì 60.000 là lao động xuất khẩu và 30.000 là phụ nữ sang lấy chồng vì lý do kinh tế. Vậy thì hình ảnh Việt Nam ở đây làm sao tốt được? Trí thức nước ngoài hiện nay khi nói về Việt Nam ít có ai lạc quan về tương lai kinh tế nước ta. Đó là họ mới chỉ thấy tình trạng tham nhũng, trình độ của quan chức mà họ tiếp xúc và những chính sách bất cập mà họ thấy được.

Phân tích trong phần tiếp theo cho thấy thực trạng đáng lo ngại về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học & công nghệ và đối ngoại, cũng như những nguyên nhân chính đã đưa đến trình trạng đó.

 Trở lại mục lục

C. Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân

Phân tích hiện trạng Việt Nam, chúng tôi thấy có quá nhiều vấn đề đang làm cho nền tảng xã hội bị lung lay, đất nước suy yếu. Hầu hết những vấn đề đó bắt nguồn từ thể chế và cơ chế.

        1. Về kinh tế

Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp chiếm khoảng 60% nhưng chủ yếu vẫn là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn. Thêm vào đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản phẩm trung gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ năng lao động cao chỉ chiếm khoảng 10% tổng xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nông sản, nguyên liệu. Từ năm 2002 nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh và gần đây khuynh hướng này càng mạnh hơn. Nhập siêu quá lớn đang gây ra bất ổn vĩ mô.

Trong 5 năm qua, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đi theo hướng hầu như mở toang cửa nền kinh tế mà không kèm theo việc thiết lập một hệ thống pháp lý cần thiết nhằm giám sát các mặt trái của nền kinh tế thị trường. Kết quả là Việt Nam đã vô tình xây dựng và củng cố một nền kinh tế tư bản hoang dã phục vụ các nhóm lợi ích (nhất là các tập đoàn kinh tế), phá hoại tài nguyên thiên nhiên, bòn rút của công làm giàu cho cá nhân trong khi lao động chân chính phải khổ sở với đồng lương thấp trước sự leo thang của vật giá.

Từ năm 2006 Việt Nam cho phép lập các tập đoàn kinh tế nhưng không đi kèm quy định giám sát cần thiết cũng như điều kiện buộc phải xác lập hệ thống quản lý doanh nghiệp, minh định rõ trách nhiệm và quyền hạn của lãnh đạo công ty. Điều này đã đưa đến hậu quả nghiêm trọng, trở thành một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng hiện nay. Sự đổ vỡ của Vinashin cho thấy bản chất của các tập đoàn kinh tế.

Chính sách phân quyền xuống địa phương đã không phát huy được sức sáng tạo và cạnh tranh để phát triển mà ngược lại, mở cửa cho những người có chức có quyền ở địa phương lợi dụng cơ hội đào khoét tài nguyên đất nước để làm giàu cá nhân, kể cả việc giao đất và tài nguyên cho nước ngoài khai thác ở những nơi trọng yếu về an ninh và quốc phòng. Luật Đất đai coi đất đai là sở hữu công, do đó  dành cho chính quyền quyền thu hồi đất của bất cứ ai. Luật lại giao quyền này cho Ủy ban Nhân dân ở mọi cấp, xuống tận cấp quận, huyện, với giá do chính Ủy ban Nhân dân quyết định nhằm mục đích “phát triển kinh tế”. Đây chính là lý do nhiều đất đai mầu mỡ của nhân dân bị thu hồi để làm khu phát triển công nghiệp, sân gôn, hay xây nhà kinh doanh. Do được phân quyền, nhiều địa phương giao đất rừng, hầm mỏ cho công ty Trung Quốc khai thác trong 50 năm, kể cả những vùng nhạy cảm về an ninh mà trung ương không biết. Ngoài ra, tình trạng thu hồi đất có tính cách cưỡng chế đã giải thích tại sao có quá nhiều vụ dân oan liên quan đến đất đai.

Chính sách phân quyền hoàn toàn hợp lý để tạo sự chủ động, sáng tạo cũng như nhằm giải quyết các vấn đề riêng của địa phương, kể cả tạo cạnh tranh giữa địa phương này và địa phương khác. Nhưng thực tế các yếu tố tích cực đó đã không phát huy tác dụng, ngược lại chỉ làm nảy sinh các mặt tiêu cực. Tại sao như vậy? Đó là do năng lực yếu kém và thiếu tinh thần trách nhiệm của nhiều lãnh đạo địa phương như sẽ nói dưới đây.

Quy hoạch phát triển cũng là vấn đề đáng lo ngại của ta. Nhìn chung, cho đến nay quy hoạch nặng tính chất áp đặt, nóng vội, duy ý chí, thiếu thiết kế tổng thể và nhiều khi thiếu tính chuyên nghiệp. Những yếu kém này thể hiện ở nhiều lĩnh vực. Trong phát triển đô thị thì đó là việc quy hoạch vội vã, thiếu khoa học dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông liên tục và kéo dài, ngập úng do mưa, đào đường, đắp đường, chắn lô cốt … ở khắp mọi nơi. Trong đầu tư thì đó là tình trạng đầu tư theo phong trào, tràn lan kém hiệu quả như việc đầu tư trong nhiều dự án về kết cấu hạ tầng, về nhiều dự án phát triển công nghiệp và dịch vụ kém hiệu quả. Việc quy hoạch phát triển yếu kém dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên cạn kiệt, ồ ạt, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà không tính đến hiệu quả lâu dài; không xét đầy đủ đến tất cả các khía cạnh liên quan đến hiệu quả kinh tế, văn hóa, môi trường, v.v. Nhiều cảnh quan thiên nhiên và di tích văn hóa bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đặc biệt môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Điển hình của việc này là nhiều dòng sông đã và đang bị các công ty đua nhau “bức tử”. Nguồn nước sinh hoạt, nước trong các ao hồ từ các thành phố lớn đến nông thôn cũng bị ô nhiễm ở rất nhiều nơi. Chính do ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, ở nhiều vùng đã xuất hiện những “làng ung thư”. Điều này gióng lên hồi chuông cảnh báo cấp bách và đòi hỏi chính quyền phải có những biện pháp mạnh mẽ hơn nữa trong việc bảo vệ môi trường và chất lượng nguồn nước. Ngoài ra, ô nhiễm không khí cũng ở trạng thái báo động và ô nhiễm ở các làng nghề cũng ở mức nguy hiểm.

Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của quy hoạch, do khả năng hạn chế của chính quyền địa phương, và không loại trừ những toan tính tư lợi hoặc lợi ích cục bộ của những người có trách nhiệm.

Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình hình kinh tế như hiện nay? Chúng tôi cho là có ba nguyên nhân sâu xa.

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì phương châm xây dựng “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” trong đó chủ trương vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước, của kinh tế nhà nước. Từ khi có phương châm này (1991), do sự thuyết phục của những người có tư tưởng cải cách, nội dung có thay đổi một phần nhưng cái cốt lõi vẫn giữ nguyên mà hiện thân của nó là các tập đoàn kinh tế do nhà nước lập ra. Nhiều tập đoàn kết nối với một số lãnh đạo làm thành những nhóm lợi ích chi phối chính sách kinh tế. Khi có sai phạm các lãnh đạo đó bám theo phương châm nói trên của Đảng để trốn trách nhiệm.

Thứ hai, trong cơ quan nhà nước, trách nhiệm cá nhân không rõ ràng và thiếu động cơ để quan chức, lãnh đạo các bộ phấn đấu để bộ mình giải quyết các vấn đề lớn của đất nước. Ngược lại, ta thấy nhiều trường hợp họ chạy theo những hoạt động ngoài công việc mình phụ trách, lãng phí thì giờ và công quỹ. Có bộ trưởng phụ trách kinh tế trong lúc kinh tế khủng hoảng lại dành thời gian hướng dẫn nghiên cứu sinh viết luận án tiến sĩ, vốn là việc của giáo sư đại học. Có cục trưởng phụ trách vấn đề giá cả trong lúc lạm phát người dân khốn đốn lại bỏ đi đóng phim! Suốt trong hơn 10 năm qua, ai cũng thấy rõ công nghiệp Việt Nam thiếu sức cạnh tranh, hàng hóa của Trung Quốc ào ạt tràn vào nước ta, doanh nghiệp nhỏ và vừa không phát triển được, v.v. Cũng đã có rất nhiều đề án, chiến lược được trí thức trong và ngoài nước đưa ra, kể cả phân tích của học giả nước ngoài và các cơ quan quốc tế, nhưng tất cả đều bị xếp lại, không được chuyển thành chính sách để thực hiện.

Thứ ba, một phần liên quan đến vấn đề thứ hai vừa đề cập, trình độ, năng lực, tư cách của rất nhiều quan chức các cấp ở trung ương và địa phương không đạt yêu cầu. Rất tiếc chúng ta chưa chứng kiến những hình tượng lý tưởng của nhà cầm quyền “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”, còn người ngược lại thì quá nhiều. Trong cơn bão giá làm dân chúng điêu đứng mà trách nhiệm chính ở những bộ liên quan, nhưng tiền mua xe hơi của quan chức cao cấp được tăng lên và được giải thích đó là chính sách đối phó với giá cả leo thang! Thí dụ tương tự về sự vô cảm, vô trách nhiệm của quan chức thì quá nhiều. Hậu quả tiêu cực của chính sách phân quyền đã nói phần lớn là do trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và tư chất đạo đức của các chức trách địa phương. Chúng ta nghe nhiều về các hiện tượng tiêu cực ở địa phương hơn là những điển hình tiên tiến, ít thấy những lãnh đạo dấn thân vì dân giàu nước mạnh ở địa phương mình. Hiện tượng đưa người thân quen vào bộ máy công quyền rồi trang bị thêm bằng cấp đạt được bằng con đường bất minh cũng làm suy yếu bộ máy hành chính ở rất nhiều nơi

Trở lại mục lục

        2. Về văn hóa

Văn hóa, đạo đức xã hội đang suy thoái trầm trọng. Chưa khi nào tin tức về tệ nạn xã hội lại có mật độ dày đặc như hiện nay. Dường như, cái xấu và cái ác đang hoành hành ngoài xã hội và tràn lên mặt báo mỗi ngày. Kỷ cương, phép nước bị coi thường, tính tự giác tôn trọng pháp luật và các quy ước xã hội và văn hóa rất thấp. Mê tín dị đoan lên ngôi, không chỉ ở tầng lớp đại chúng mà ngay ở cả một số cán bộ cao cấp ở các cơ quan công quyền. Hiện tượng “buôn thần bán thánh” trở thành phổ biến. Những chuẩn mực về văn hóa, những giá trị phổ quát như chân-thiện-mỹ đã bị sự giả dối, cái xấu và cái ác bóp nghẹt không nhân nhượng.

Hệ quả của điều này là các thang giá trị trong xã hội bị đảo lộn. Sự tự trọng, danh dự đã bị sự giảo hoạt, gian dối lấn át. Người ta sẵn sàng làm đồ giả để dâng cúng Quốc tổ, Quốc mẫu; sẵn sàng tranh cướp trong các lễ hội hoa; sẵn sàng túc trực chen lấn xô đẩy đến hỗn loạn trong lễ hội phát ấn.

Chưa bao giờ, nhân phẩm của con người có thể bị xúc phạm dễ dàng và tính mạng của con người có thể bị coi rẻ như vậy. Những vụ đánh giết nhau với hung khí xảy ra thường xuyên, nhiều khi chỉ vì những nguyên nhân không đâu. Không chỉ giữa những người dân bình thường với nhau, mà còn cả giữa đại diện của cơ quan công quyền với dân chúng. Vốn tộc trở manh hơn bao giờ hết trước sự tấn công của văn hóa ngoại, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc dưới mọi hình thức, thể loại.

Một điều hết sức đáng băn khoăn là thế hệ thanh thiếu niên đang lớn lên trong một môi trường thiếu hình mẫu cá nhân về lý tưởng và đạo đức, do vậy dễ quen một cách tự nhiên với các thói xấu như quay cóp, gian lận thi cử, đạo văn, hối lộ… Tính vị kỷ được đề cao, đi liền cùng sự thờ ơ với các vấn đề của xã hội, của đất nước.

Nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng suy thoái đạo đức, văn hóa này là sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chức năng; sự băng hoại, tha hóa của nhiều công chức qua việc tham nhũng và hối lộ; và sự kiểm soát báo chí và truyền thông, – vũ khí mạnh nhất để chống lại tham nhũng, bất công, giả dối, ác độc – đã làm cho công luận bị hạn chế và vô hiệu hóa.

Trở lại mục lục

3. Về giáo dục

Giáo dục là vấn đề được toàn xã hội Việt Nam quan tâm nhất từ nhiều năm nay. Từ cuối thập niên 1990 nhà nước đã đưa giáo dục lên quốc sách hàng đầu, nhưng thực tế thì tình hình giáo dục ngày càng tụt hậu, sa sút, nhất là trong những năm gần đây. Một vài điểm nổi bật dễ thấy của giáo dục Việt Nam trong những năm qua như sau.

Một là chất lượng đào tạo sút kém, từ bậc phổ thông đến đại học và càng lên cao chất lượng càng yếu. Nhìn tổng thể, giáo dục Việt Nam chưa đào tạo đủ những người có kiến thức và năng lực để đáp ứng nhu cầu của phát triển đất nước. Nhân lực đào tạo ra ở cuối bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề còn ở khoảng cách xa với đòi hỏi thực tế của các ngành nghề và xã hội.

Hai là hệ thống giáo dục phổ thông gây ra nhiều hiện tượng làm bức xúc trong xã hội như tổ chức quá nhiều kỳ thi, lãng phí sức người, sức của; dạy thêm, học thêm tràn lan; chương trình giáo dục và sách giáo khoa luôn thay đổi nhưng chất lượng không được cải thiện. Ngoài ra, bệnh thành tích và các tệ nạn tham nhũng trong giáo dục hết sức phổ biến.

Ba là giáo dục đại học có chất lượng nói chung còn thấp, gần đây lại phát triển hỗn loạn với nhiều trường tư chạy theo lợi nhuận lại được cấp phép bừa bãi, không đáp ứng một quy hoạch có cân nhắc nào. Tình trạng nói trên dẫn đến hiện tượng “tị nạn giáo dục”, khi những người giàu có ở Việt Nam, kể cả các quan chức trong Đảng và chính phủ, đều tìm cách cho con em ra nước ngoài học, thậm chí từ cấp phổ thông.

Bốn là bằng cấp trở thành mục đích, là cứu cánh của cả xã hội, và các tệ nạn học vẹt, học tủ, bằng giả, gian lận trong thi cử, … không hề được bài trừ một cách kiên quyết. Nhiều quan chức bị tố cáo trên báo chí về việc dùng bằng giả hay gian lận thi cử rồi cũng được bỏ qua, thậm chí được bổ nhiệm chức vị cao hơn. Hiện tượng mua bằng, sao chép luận án, thuê viết luận án, v.v. đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức học đường nói riêng và toàn xã hội nói chung.

Năm là chế độ phong chức danh phó giáo sư và giáo sư ở đại học còn nhiều bất cập. Các tiêu chuẩn phong chức danh hiện nay không khuyến khích nhà giáo đại học hướng đến những nghiên cứu khoa học đích thực, có ý nghĩa mà thường làm những việc để dễ có “điểm” theo quy định không đâu có của việc phong chức danh. Ngoài ra, các chức danh này lẽ ra chỉ dành cho người giảng dạy đại học hoặc nghiên cứu khoa học, nay được phong ở nhiều ngành cho nhiều người vốn không có vị trí giảng dạy đại học hay nghiên cứu ở cơ quan khoa học, làm cho nhiều quan chức hành chính nhảy vào tham gia công việc của đại học một cách không thích đáng.

Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sa sút của giáo dục đã được bàn luận rộng rãi, chúng tôi cho rằng các nguyên nhân sau đây là chính yếu.

Một là giáo dục của Việt Nam trong những năm qua thiếu một tầm nhìn chiến lược tổng thể; thiếu kiên quyết theo đuổi một triết lý giáo dục xác định; thiếu kế hoạch đồng bộ từ cơ cấu tổ chức đến triển khai các hoạt động giáo dục; ở rất nhiều nơi, sự cứng nhắc và áp đặt của hệ thống chính trị đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động giáo dục. Thêm nữa là nội dung giáo dục nặng nề, phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới; và trên hết là thiếu những người lãnh đạo ngành giỏi cùng một đội ngũ quản lý giáo dục hiệu quả. Những cố gắng thay đổi của ngành giáo dục trong những năm qua thường mang tính vụn vặt, chắp vá, nhiều khi do quyết định vội vã của một vài cá nhân và càng làm tình hình thêm rối.

Hai là lương của giáo viên quá thấp làm họ không thể vô tư toàn tâm toàn ý với công việc. Do giáo viên phải tự bươn chải trong một xã hội cha mẹ sẵn sàng làm mọi việc cho sự học của con cái, nhiều tiêu cực đã nảy sinh, ảnh hưởng đến tư cách và hình ảnh người thầy, vốn là điều kiện tiên quyết cho thành bại của giáo dục.

Trở lại mục lục

4. Về y tế

Tình trạng bệnh tật và y tế của nước ta thật hết sức đáng lo.

Số người chết vì tai nạn giao thông làm nhức nhối xã hội, nhưng nguyên nhân tử vong trong các bệnh viêm phổi, viêm họng, viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét còn cao hơn nhiều. Mẫu số chung của các bệnh này là tình trạng thiếu dinh dưỡng vì nghèo khó, là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng, là sự bất cập trong chính sách về y tế và thiếu đạo đức nghề nghiệp của người thầy thuốc.

Dịch vụ y tế ở Việt Nam có phát triển trong những năm vừa qua (số lượng cán bộ nhà nước làm về y tế tăng xấp xỉ 40% trong giai đoạn 1995-2009, và có thêm nhiều cơ sở y tế tư nhân xuất hiện), nhưng tình trạng quá tải ở các bệnh viện công, với hiện tượng 2-3 người phải nằm chung một giường bệnh ở nhiều nơi, không giảm đi mà thậm chí có phần tăng lên. Lý do là, tuy dịch vụ y tế tăng lên, nhưng bệnh tật ở Việt Nam còn tăng nhanh hơn. Ví dụ, nếu năm 2000 cứ 100 nghìn người có 242 ca ung thư, thì đến năm 2010 con số này đã tăng lên thành 315 ca, so với trung bình trên thế giới là dưới 200 ca. Nếu như trong giai đoạn 2002-2006 cứ 100 người thì có 9 lượt nhập viện trong năm, thì đến năm 2009 con số đó đã tăng hơn 30% thành 12 lượt nhập viện, thuộc loại cao nhất trên thế giới. Tỷ lệ bệnh tật tăng nhanh là cái giá mà Việt Nam đang phải trả cho kiểu phát triển kinh tế thiếu bền vững, thói làm ăn giả dối dẫn đến môi trường bị ô nhiễm và thực phẩm độc hại.

Tương tự như đối với ngành giáo dục, nhà nước ở trung ương và địa phương chưa chú tâm đầu tư đúng mức đến ngành y tế, trong khi tiếp tục lãng phí trong việc xây dựng nhiều công trình không hoặc chưa cần thiết. Tỷ lệ chi phí mà nhân dân phải tự bỏ ra cho dịch vụ y tế tăng lên nhanh. Nhiều người nghèo có bệnh không được nhập viện, hay phải trốn viện vì không có tiền đóng viện phí. Lương chính thức trả cho các y bác sĩ không đủ sống và không xứng đáng với địa vị của họ. Những điều này góp phần làm cho các tệ nạn tiêu cực, sự suy đồi về đạo đức lan tràn vào trong ngành y tế. Người thầy giáo và người thầy thuốc vốn là những người được xã hội ta tôn trọng từ xưa, nhưng sự suy thoái về đạo đức đã làm phai nhạt đi truyền thống tốt đẹp này.

Trở lại mục lục

5. Về khoa học và công nghệ

Có thể nói những đặc điểm chính của khoa học và công nghệ (KH&CN) Việt Nam trong mấy chục năm qua là sự đóng góp còn rất hạn chế của KH&CN vào công cuộc phát triển đất nước; lực lượng làm KH&CN được đào tạo nhiều nhưng không làm việc hiệu quả; các chính sách và cách thức tổ chức hoạt động KH&CN còn nhiều bất cập.

Có thể tóm tắt những điểm nổi bật của bức tranh tổng quát về tình trạng khoa học và công nghệ của Việt Nam hiệ:

Thứ nhất, có thể nói hoạt động nghiên cứu và ứng dụng KH&CN ở Việt Nam còn mờ nhạt: hoạt động nghiên cứu KH&CN có chất lượng thấp và KH&CN chưa có những đóng góp xứng đáng cho sự phát triển đất nước.

Chất lượng thấp này có thể thấy rõ qua các thước đo khách quan như số lượng các công trình công bố trên các tập san khoa học quốc tế uy tín và số bằng phát minh sáng chế. Trong 10 năm qua, số lượng công bố của các nhà khoa học Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và 2/5 của Malaysia. Hơn nữa, ở nhiều lĩnh vực, phần lớn những nghiên cứu này là do hợp tác với nước ngoài, tức còn phụ thuộc vào “ngoại lực” quá nhiều. Trong giai đoạn 2000-2007, các nhà khoa học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng phát minh, trong khi cùng thời gian này Malaysia có 901 bằng phát minh. Thái Lan (310), Philippines (256) và Indonesia (85) cũng đều có số bằng phát minh nhiều hơn Việt Nam nhiều lần.

Ứng dụng và sáng tạo KH&CN trong sự phát triển của Việt Nam còn mờ nhạt, chưa tương xứng với lực lượng đông đảo cán bộ KH&CN được đào tạo và chưa đáp ứng được đòi hỏi của xã hội. Kinh phí đầu tư, chính sách và cách quản lý chưa cho thấy KH&CN khó có thể trở thành yếu tố quyết định để Việt Nam thoát ra khỏi nhóm quốc gia chủ yếu chỉ sản xuất sản phẩm đơn giản hay gia công hàng hóa. Hiện tại, phần lớn doanh nghiệp làm ăn chưa dựa trên KH&CN và hầu hết không có liên kết chặt chẽ với các cơ sở KH&CN.

Thứ hai là số người được đào tạo để hoạt động KH&CN tuy rất đông với nhiều bằng cấp, nhưng phần lớn không thật sự hoạt động KH&CN, mà lay lắt hoặc “chân trong chân ngoài” với danh nghĩa làm KH&CN.

Có thể nêu ra một số nguyên nhân chính của tình trạng trên:

Một là, Việt Nam thiếu một chiến lược KH&CN thích hợp nên chưa xác định được lộ trình của KH&CN, và tập trung vào những hướng quan trọng rất cần cho phát triển đất nước và có thể tạo ra thành quả ý nghĩa. Hạn chế này có phần do việc thiếu các chuyên gia đầu đàn ở mức độ am hiểu sâu sắc lĩnh vực chuyên môn, có kinh nghiệm và uy tín quốc tế, có thể lãnh đạo được những tập thể khoa học. Một nguyên nhân của tình trạng trên là: Tuy số lượng cán bộ KH&CN của ta được đào tạo nhiều, nhưng hầu hết chỉ ở mức vừa xong giai đoạn học việc (như có bằng tiến sĩ mới là xong giai đoạn học để thành người làm nghiên cứu), thường không được rèn luyện thêm trong môi trường KH&CN phát triển để thành nhà khoa học trưởng thành.

Hai là, các nhà khoa học Việt Nam chưa có được môi trường KH&CN  thích hợp để có thể làm việc và sáng tạo. Môi trường này gồm ba yếu tố cơ bản: điều kiện làm việc đủ tốt, lương đủ sống để tập trung cho công việc, các chính sách hợp lý có tác dụng kích thích tinh thần sáng tạo, dấn thân vì khoa học. Điều kiện làm việc ở phần lớn các đại học và các viện nghiên cứu của Việt Nam nói chung còn thiếu thốn, chưa đủ để tiến hành nhiều đề tài quan trọng và tiên tiến trong khoa học. Một số nơi có trang thiết bị tốt, lại không giải quyết được vấn đề tiền lương. Tiền lương của người làm khoa học thấp vừa ảnh hưởng đến nội dung, chất lượng nghiên cứu vừa gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực, người có năng lực nghiên cứu cũng không chuyên tâm với nghề mà phải xoay xở tìm thêm thu nhập ngoài lương.

Nhiều chính sách và cách quản lý đề tài KH&CN chưa hợp lý cũng góp phần làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của nghiên cứu. Thí dụ tiêu biểu như cách tổ chức đề tài khoa học còn nặng tính xin-cho, làm nhiều người làm nghiên cứu mất nhiều thì giờ chạy dự án; việc tuyển chọn và nghiệm thu đề tài thiếu nghiêm túc nên rất nhiều đề tài không có ý nghĩa và giá trị khoa học. Những quy định, tiêu chuẩn hiện nay về việc phong các chức danh giáo sư, phó giáo sư không khuyến khích các nhà khoa học hướng đến những nghiên cứu quan trọng và thách thức, có giá trị khoa học cao hoặc cần cho sự phát triển, mà dễ hướng đến những nghiên cứu dễ làm, những nơi dễ công bố để có đủ “điểm” thỏa mãn các tiêu chuẩn phong chức danh, vốn không có ở bất kỳ nước nào khác. Đây thật sự là những điều rất không hợp lý đã được nhiều nhà khoa học góp ý gần hai chục năm, nhưng không được thay đổi.

Người làm nghiên cứu trong ngành khoa học xã hội còn luôn nỗi ám ảnh sợ “chệch hướng”, mất lập trường, nên nói chung sáng tạo bị hạn chế, khoảng cách so với cộng đồng khoa học thế giới càng lớn. Ngoài ra, ngược với yêu cầu rất cao về sự bình đẳng, sự tự do tư duy của môi trường khoa học, việc mất dân chủ ở các cơ quan khoa học thường rất lớn, nhiều trường hợp nội bộ mâu thuẫn, giành giật địa vị, hoàn toàn không xứng đáng với phẩm vị của người làm khoa học.

Trở lại mục lục

6. Về quan hệ đối ngoại

Sau khi gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Việt Nam mở rộng quan hệ ngoại giao, kinh tế và giao lưu văn hóa với hầu hết các nước. Sau năm 2000, quan hệ đó được đẩy mạnh thêm một bước bằng Hiệp định thương mại Việt Mỹ và gia nhập WTO. Cùng với trào lưu toàn cầu hóa, kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào dòng chảy của thế giới, các quan hệ đối ngoại khác cũng nhộn nhịp hơn trước.

Có thể ghi nhận nhiều mặt tích cực của hiện tượng đó. Chẳng hạn xuất khẩu sang thị trường lớn nhất thế giới (Mỹ) được đẩy mạnh, cơ hội du học của sinh viên Việt Nam tăng nhanh, giành được vị trí trong các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC, WTO. Nhưng nhìn kỹ ta thấy những mặt tiêu cực lớn hơn nhiều, rất đáng lo ngại.

Theo chúng tôi, so với thời mới đổi mới, mở cửa (đầu thập niên 1990), hình ảnh Việt Nam trên thế giới xấu đi nhiều. Tham nhũng lan ra cả trong các quan hệ quốc tế. Chỉ kể những sự kiện lớn (như dự án ODA của Nhật, vụ in tiền polymer ở Úc,…) cũng thấy thể diện đất nước bị tổn thương nhiều. Các vụ nhỏ hơn thì nhiều vô kể, chỉ cần gặp những doanh nhân nước ngoài có kinh nghiệm làm việc ở Việt Nam là biết rõ. Điều đáng nói là nhà nước Việt Nam đã không có thái độ thích đáng, không xử lý nghiêm những sự kiện bị nước ngoài chỉ trích. Điển hình là vụ in tiền polymer, báo chí nước ngoài nhiều lần nêu tên thật của cựu thống đốc ngân hàng nhà nước mà cả đương sự và chính phủ đều giữ im lặng. Là người Việt Nam có ý thức dân tộc ai cũng thấy hổ thẹn về sự kiện này.

Nhìn sang lĩnh vực đầu tư nước ngoài, ta thấy nổi bật lên sự hiện diện rất lớn của Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và gần đây là Trung Quốc. So với các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật, Pháp,.. thì những nước mới nổi, mới phát triển chưa có nhiều những công ty đa quốc gia tầm cỡ; chưa có công nghệ cao; chưa coi trọng sự minh bạch, hoạt động đúng theo luật và nhất là giữ thanh danh đã được xác lập của mình. Không ít trường hợp các công ty của những nước mới nổi tạo những quan hệ bất chính với quan chức nhà nước Việt Nam, nhất là với chính quyền địa phương, để được cấp các dự án béo bở. Chúng tôi rất lo ngại khi thấy nhà nước Việt Nam quá dễ dãi để cho tư bản nước ngoài đầu tư ồ ạt vào việc xây dựng các khu nhà ở quy mô lớn, các khu du lịch, sân gôn, v.v. và hình thành những cộng đồng người Hàn, người Hoa trên đất nước mình. Trong khi giới doanh nhân trong nước còn non yếu, chưa có khả năng làm chủ đất nước và cuộc sống của tuyệt đại đa số người dân còn nhiều khó khăn, liệu có nên để cho nước ngoài xây dựng những vùng đặc biệt như vậy? Trong nhiều năm qua, đầu tư nước ngoài triển khai ồ ạt ở Việt Nam mà cơ cấu công nghiệp không chuyển dịch lên cao hơn, không tạo ra được những mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao.

Trong chiều hướng chung ấy, quan hệ với Trung Quốc là đáng lo nhất. Đầu tư của Trung Quốc chưa nhiều bằng những nước nói trên nhưng sự hiện diện của Trung Quốc trong những hình thái khác đang làm Việt Nam mất dần chủ quyền trong nhiều lĩnh vực. Nếu tình hình hiện tại không thay đổi thì đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc sẽ tăng nhanh, không bao lâu sẽ chiếm vị trí số một tại Việt Nam.

Hiện nay, quan hệ ngoại thương Việt Trung gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam, tiềm ẩn nguy cơ về an ninh kinh tế và gây khó khăn trên con đường công nghiệp hóa của ta. Mậu dịch giữa hai nước tăng nhanh từ năm 2000 nhưng ngày càng mất quân bình. Do nhập khẩu tăng nhanh, nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc ngày càng mở rộng. Hiện nay nhập siêu của Việt Nam đối với thế giới chủ yếu là nhập siêu với Trung Quốc.

Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ta thấy nguyên liệu và nông sản phẩm chiếm vị trí áp đảo. Cơ cấu này hầu như không thay đổi trong 10 năm qua. Nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc thì hầu hết là hàng công nghiệp. Các loại máy móc và các sản phẩm trung gian như sắt thép, thậm  chí các loại vải để dệt may là những mặt hàng nhập khẩu chính. Theo Hiệp định thương mại ASEAN – Trung Quốc, đến năm 2015 Việt Nam sẽ bãi bỏ hàng rào quan thuế trên hầu hết các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, tình hình sẽ càng bi đát hơn nữa. Con đường công nghiệp hóa của Việt Nam sẽ rất khó khăn. Nhưng chính phủ Việt Nam không thấy nguy cơ đó dù đã được trí thức trong và ngoài nước cảnh báo nhiều lần. Ngược lại nhà nước còn cho tiến hành khai thác bô-xit để xuất khẩu sang Trung Quốc làm cho cơ cấu ngoại thương hiện nay đã bất lợi càng trở nên bất lợi hơn. Cần nói thêm rằng tính chất của ngoại thương Việt Trung hiện nay là quan hệ của một nước tiên tiến với một nước chậm phát triển. Tính chất này vừa tạo ra khó khăn cho kinh tế Việt Nam vừa làm hình ảnh Việt Nam trên thế giới xấu đi nhiều.

Thách thức từ Trung Quốc không chỉ trong ngoại thương. Các công ty Trung Quốc thắng thầu phần lớn các dự án trọng điểm quốc gia của Việt Nam. Trung Quốc với lối làm ăn không minh bạch, sẵn sàng mua chuộc, lại quả, nên dễ thắng phần lớn các gói thầu lớn ở Việt Nam. Theo ước tính, Trung Quốc chiếm khoảng 50% giá trị thầu trong vòng 10 năm nay, đặc biệt Trung Quốc thắng thầu tới 90% các dự án trọng điểm về điện, dầu khí, viễn thông, cơ khí, hóa chất và 100% dự án khai khoáng. Trong việc thực hiện các dự án này, Trung Quốc đưa nhiều lao động đi theo, kể cả các hình thức bất hợp pháp, thậm chí hình thành những khu cư trú đặc biệt cho người Hoa. Ngoài ra, nhiều chính quyền địa phương còn cho công ty Trung Quốc thuê rừng, thuê bờ biển hàng nửa thế kỷ, kể cả những nơi nhạy cảm nhìn từ góc độ an ninh quốc gia.

Một vấn đề nữa là Việt Nam ngày càng vay nợ từ Trung Quốc. Theo số liệu chính thức của Bộ Tài chính Việt Nam, nợ từ Trung Quốc tăng rất nhanh, gấp 10 lần trong 4 năm gần đây (1,4 tỉ USD năm 2009). Nếu khuynh hướng này tiếp tục, chẳng bao lâu Trung Quốc sẽ trở thành chủ nợ lớn nhất và lớn áp đảo đối với Việt Nam.

Quan hệ Việt Trung cũng ảnh hưởng nhiều đến đường lối đối ngoại của Việt Nam. Vấn đề này sẽ được bàn riêng trong một mục ở phần D.

Trong thời đại hội nhập, quan hệ đối ngoại của Việt Nam như được trình bày trên đây hoàn toàn không lành mạnh, ảnh hưởng đến con đường phát triển sắp tới của Việt Nam và tiềm ẩn nguy cơ mất chủ quyền. Yếu tố nào gây ra tình trạng đáng lo này? Có thể kể hai nguyên nhân chính:

Thứ nhất, nội lực của Việt Nam quá yếu nên khi hội nhập với thế giới không hoặc ít tranh thủ được thời cơ từ ngoại lực để phát triển, ngược lại bị ngoại lực chi phối. Thị trường Trung Quốc lớn và rộng nhưng hàng hóa của Việt Nam không chen vào được. Nội lực yếu vì sao? Vì trình độ của nhiều lãnh đạo và quan chức có hạn, không ít trường hợp họ không vì dân vì nước mà vì lợi ích riêng, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho nước ngoài dù thấy bất lợi cho xã hội, cho đất nước. Mở tung cửa thị trường cho hàng hóa và tư bản nước ngoài mà không định hướng để phát triển những ngành mới và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, không đi kèm các luật lệ, quy định cần thiết để giám sát cũng là một biểu hiệu yếu kém của nội lực.

Thứ hai, trong lúc nội lực của Việt Nam còn quá yếu, quan hệ “đặc biệt” với Trung Quốc càng làm cho Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào nước này. Kinh tế Trung Quốc lớn, mạnh áp đảo, phát triển nhanh, và lại ở cận kề Việt Nam, trong khi kinh tế Việt Nam nhỏ yếu, phát triển chậm hơn mà Việt Nam lại sẵn sàng đồng ý “hợp tác toàn diện” (4 trong 16 chữ vàng), tạo mọi điều kiện để hợp tác toàn diện thì dẫn đến kết quả như đã thấy.

Trở lại mục lục

7. Tổng kết: Đâu là những nguyên nhân sâu xa?

Trên đây chúng tôi đã điểm qua thực trạng kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và đối ngoại của Việt Nam hiện nay và trình bày một số nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng đó. Nổi lên trên hết là hai nguyên nhân cơ bản, chung cho tất cả các mặt của xã hội:

Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng thể chế hiện nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội kiểu Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư tưởng, thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng động và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được suy thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều công chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa học, … không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn có từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh của đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.

Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong thành phần lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách nhiệm cao và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung ương đến địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết. Tình trạng bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối. Việc lợi dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến ở nhiều cán bộ nhà nước.

 Trở lại mục lục

D. Cải cách vì một nước Việt Nam giàu mạnh và tự chủ

1. Cải cách thể chế là quan trọng nhất

Có thể nói Việt Nam chúng ta đang đứng trước một bước ngoặt lịch sử. Phải có cuộc cách mạng về thể chế mới tránh được nguy cơ này và đưa đất nước phát triển bền vững. Ai sẽ đảm nhận cuộc cách mạng mới này và nội dung cốt lõi của cuộc cách mạng là gì?

Chúng tôi cho rằng ở thời điểm này chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới thực hiện được cuộc cách mạng này. Đảng Cộng sản Việt Nam cần tự thay đổi để lãnh đạo dân tộc bước vào một thời đại mới, thời đại củng cố và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để đất nước trở nên giàu mạnh, tự chủ. Đó cũng chính là sức mạnh to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam (trước đây là Đảng Lao động Việt Nam) đã phát huy, đã phấn đấu, hy sinh trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng thể chế này, theo chúng tôi, bao gồm những khía cạnh sau:

Thứ nhất, không áp đặt một hệ tư tưởng, một ý thức hệ duy nhất vào thể chế chính trị, vào đời sống của dân, vào các hoạt động kinh tế – giáo dục – văn hóa – báo chí, để tạo điều kiện cho người dân, nhất là giới trẻ tiếp cận được những tinh hoa, những tiến bộ của thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nếu chỉ biết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ của thế giới thì đã không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém những giá trị phổ quát của nhân loại. Trên thực tế, chính Đảng Cộng sản đã từ bỏ nhiều khẩu hiệu phi lý một thời đã được cường điệu. Chẳng hạn “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” từng là một trong những khẩu hiệu được phổ biến rộng rãi (sau năm 1975) nhưng đã dần dần biến mất. Đó là một sự thay đổi tích cực cần ghi nhận. Mong rằng Đảng Cộng sản tiến thêm một bước tránh dùng các cụm từ như “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” để các thế lực bảo thủ vì lợi ích riêng không thể dựa vào đó để làm cho đất nước trì trệ, lạc hậu. Chúng tôi cho rằng Đảng Cộng sản chỉ giữ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là hợp lòng dân.

Ra khỏi sự ràng buộc vào một ý thức hệ cũng sẽ giúp cho Việt Nam độc lập với Trung Quốc về mặt này và đi trước Trung Quốc về cải cách thể chế. Làm được điều này, Đảng Cộng sản vừa được lòng dân vừa tạo được uy tín trên thế giới.

Thứ hai, phải triệt để thực hiện dân chủ, đúng như quy định của Hiến pháp và đúng như trong Cương lĩnh mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra. Đảng phải làm thế nào để nhân dân thấy rằng đó không phải là khẩu hiệu mà chính là khát khao, trăn trở thường xuyên của lãnh đạo, của nhà cầm quyền để mọi người dân thật sự được tham gia bàn bạc và quyết định việc chung. Để thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp lý hiện nay, chỉ cần triển khai và thật sự áp dụng nội dung của Hiến pháp.

Trước hết, phải thực sự tôn trọng các quyền mà Hiến pháp đã ghi rõ, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và quyền bình đẳng trước pháp luật. Đầu tiên là quyền tự do báo chí. Muốn biết một nước có dân chủ hay không, chỉ cần nhìn tình trạng báo chí là thấy. Mà tình trạng báo chí trong nước ta thì nhân dân thấy rõ là chưa làm được nhiệm vụ thông tin trung thực và soi sáng được dư luận. Tiếp theo là quyền bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa rằng luật pháp là ở trên cao nhất, tối thượng, ai cũng ngang nhau và đều ở dưới pháp luật. Vậy mà nhân dân thấy quá nhiều người có quyền chức tự cho mình quyền đứng cao hơn người khác, thậm chí cao hơn cả pháp luật. Như vậy là ta chưa tiến được bước nào, thậm chí còn đi lùi, trên con đường “nhà nước pháp quyền” mà chính Hiến pháp đã đề xuất. Bình đẳng trước pháp luật bao hàm bình đẳng trước công vụ như một hệ quả tất nhiên. Do đó, những phân biệt đối xử như lý lịch, đảng viên hay không, đều là trái với Hiến pháp. Bình đẳng trước công vụ, ai cũng có quyền bầu cử, ứng cử như nhau, ai cũng phải được tuyển dụng vào các cơ quan hành chính trên cơ sở duy nhất là năng lực và tinh thần trách nhiệm. Chỉ với biện pháp đó, thực hiện triệt để, nền hành chính của ta, từ trung ương đến địa phương, mới có thể tuyển dụng được người tài giỏi xứng đáng.

Thứ hai, triệt để tôn trọng nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất”. Đảng Cộng sản phải thực sự thực hiện nguyên tắc đó để làm nhân dân tin rằng lá phiếu của mình chắc chắn góp phần vào việc xây dựng một cơ quan xứng đáng là đại diện toàn dân.

Thứ ba, bảo đảm có hệ thống tòa án độc lập là sự phân quyền vô cùng quan trọng. Để có được sự độc lập và bảo đảm khả năng chuyên môn về luật pháp, các thẩm phán cần phải được tuyển dụng như công chức, được bổ nhiệm theo một quy chế riêng có mục đích bảo vệ tính độc lập của họ. Thẩm phán ở cấp cao có trách nhiệm bổ nhiệm thẩm phán cấp dưới, cần có nhiệm kỳ dài, chỉ bị truất quyền giữa nhiệm kỳ nếu vi phạm luật pháp.

Cần nhấn mạnh điều này: Nếu Đảng đứng trên hiến pháp và quyết định thay cho Quốc hội và tòa án thì tình trạng mãi kéo dài như hiện giờ: Nhiều sai phạm lớn của cán bộ, đảng viên chỉ được xử lý nội bộ, được bao che, nên không phòng chống được tham nhũng, và kết quả là mất lòng dân và bộ máy nhà nước kém hiệu lực.

Thứ tư, cần tạo cơ chế công khai, minh bạch, thực sự dân chủ, trước hết là trong Đảng để có thể chọn lựa và làm xuất hiện những nhà lãnh đạo xứng tầm với trí tuệ của dân tộc, được dân tin tưởng và được thế giới kính trọng. Không nên tiếp tục cách làm hiện nay là dàn xếp trong nội bộ Đảng rồi đưa ra Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm.

Chúng tôi thẳng thắn nêu những vấn đề này chỉ với mong muốn Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là tổ chức lãnh đạo đất nước, không bị trói buộc bởi những giáo điều, những mô hình đã bị thực tế lịch sử loại bỏ. Những giấc mơ, những lý tưởng tốt đẹp cần được chứng minh từng bước bằng thực tế, bằng kết quả hiện thực chứ không chỉ bằng duy ý chí, và bị lợi dụng bởi một nhóm người cầm quyền, dùng giáo điều, dùng khẩu hiệu để củng cố quyền lực và lợi ích phe nhóm mà hậu quả là đất nước tụt hậu và tha hóa…

Nếu bốn điểm nói trên được thực hiện, dân chúng sẽ tin tưởng ở Đảng Cộng sản, tin tưởng ở người lãnh đạo và hy vọng về một đất nước tốt đẹp hơn. Do đó dân chúng nếu có bất mãn và phê phán lãnh đạo hay quan chức thì chỉ là đối với cá nhân chứ không phải đối với Đảng Cộng sản. Ngược lại, dân chúng được tự do sử dụng các quyền chính đáng của mình thì chính là giúp Đảng phát hiện ra những người không đủ tư chất đảm trách công việc lãnh đạo hay quản lý. Thực hiện dân chủ cũng là biện pháp hữu hiệu để phòng chống tham nhũng.

Ngoài ra, Đảng Cộng sản cần quan tâm hơn đến vấn đề đoàn kết dân tộc. Nếu những điểm nói trên được thực hiện thì kết quả là gắn bó được dân với Đảng và thực hiện được đoàn kết. Tuy nhiên, cần đưa ra các chính sách cụ thể, chẳng hạn nghiêm cấm việc lạm dụng quyền lực để đề bạt người thân, có quy chế luật lệ nghiêm khắc để xử lý các trường hợp sai phạm. Việc cất nhắc, đề bạt không dựa trên lý lịch chính trị mà theo năng lực và tư chất đạo đức. Đảng và Nhà nước cần nghiêm chỉnh thực hiện chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc đối với cựu quan chức và quân nhân của chế độ cũ ở Miền Nam, nhất là trong bối cảnh cần đoàn kết dân tộc trước yêu cầu tăng nội lực để phát triển đất nước và trước nguy cơ ngoại xâm. Đặc biệt trong tình hình phức tạp ở biển Đông, để cổ vũ lòng yêu nước của mọi người dân không phân biệt chính kiến, quá khứ, chúng tôi đề nghị nên có hình thức biểu dương sự dũng cảm hy sinh của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở Hoàng Sa năm 1974.

Trong việc thúc đẩy sự hòa giải và hòa hợp dân tộc, cần có biện pháp hữu hiệu để người Việt ở nước ngoài hợp tác với các cơ sở trong nước, nhất là trong nghiên cứu khoa học, trong giáo dục và phát triển kinh tế, để cùng làm cho đất nước giàu mạnh.

Trở lại mục lục

2. Củng cố bộ máy nhà nước

Một chính phủ mạnh và hiệu quả là điều kiện tối cần thiết để kinh tế phát triển nhanh và có chất lượng cao. Để củng cố bộ máy nhà nước, cần cải cách chế độ tiền lương và thực hiện việc thi tuyển quan chức. Đây là vấn đề cốt lõi của nhiều vấn đề.

Cải cách chế độ tiền lương là một việc tuy khó nhưng cấp bách và không thể trì hoãn, vì nếu không sẽ không thể giải quyết được vấn đề nào khác. Thiết nghĩ, đây là vấn đề nan giải nhưng không hẳn là không có giải pháp nếu nhà nước thực lòng quyết tâm. Trước mắt, chúng tôi đề khởi một số nội dung cải cách như sau:

Thứ nhất, hiện tượng phổ biến hiện nay là tiền lương chỉ chiếm một phần nhỏ trong thu nhập của quan chức, công chức, thầy giáo, v.v.. Do đó, trước tiên phải minh bạch hóa các nguồn thu nhập này và lần lượt đưa vào lương.

Thứ hai, cải cách thuế để tăng thu ngân sách. Đặc biệt cần đánh thuế lưu thông bất động sản, đánh thuế suất cao đối với những người sở hữu nhiều bất động sản, và đánh thuế thừa kế tài sản.

Thứ ba, tăng tỉ lệ tiền lương trong tổng thu ngân sách. Trước mắt giảm tỉ lệ đầu tư công lấy từ ngân sách, hoãn những dự án đầu tư lớn cần nhiều vốn nhưng chưa thật cần thiết..

Thứ tư, tinh giảm bộ máy công quyền ở trung ương và địa phương.

Chúng tôi đề nghị nhà nước lập ra ngay một ban chuyên trách về cải cách tiền lương gồm các chuyên gia kinh tế, tài chính, hành chánh. Ban chuyên trách này sẽ khẩn trương nghiên cứu, xem xét 4 nội dung cải cách nói trên, để trong thời gian ngắn đưa ra đề án cải cách khả thi.

Quan chức, công chức phải là những người được tuyển chọn nghiêm túc qua các kỳ thi định kỳ và cuộc sống của họ và gia đình họ phải được bảo đảm bằng tiền lương. Tiền lương cũng phải đủ sức hấp dẫn người có năng lực vào bộ máy công quyền. Nội dung các kỳ thi tuyển cho quan chức cấp trung trở xuống cũng cần chú trọng trình độ văn hóa và sự hiểu biết về luật pháp và cơ cấu hành chánh. Quan chức cấp trung ương, cũng với nội dung ấy nhưng ở trình độ cao cấp hơn và thêm các chuyên môn cần thiết. Trình độ văn hóa và sự khó khăn phải vượt qua các cửa thi tuyển sẽ nâng cao khí khái và lòng tự trọng của quan chức, tránh hoặc giảm được tệ nạn tham nhũng. Việc thi tuyển quan chức còn có tác dụng tạo niềm tin và động lực học tập trong giới trẻ vì ai cũng có cơ hội bình đẳng thi thố tài năng cho việc nước. Chế độ tiền lương và việc thi tuyển quan chức cần được thực hiện trong vòng 3-4 năm tới.

Trở lại mục lục

3. Về chiến lược, chính sách phát triển kinh tế

Đây là vấn đề khá rộng và lớn, ở đây chỉ xin nói đến mấy điểm chúng tôi cho là quan trọng nhất.

Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Chiến lược phát triển phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng và chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực ngày càng có kỹ năng cao qua giáo dục và đào tạo, qua khả năng làm chủ công nghệ.

Hiện nay xuất khẩu lao động và phụ nữ lấy chồng nước ngoài vì lý do kinh tế đang là hiện tượng làm bức xúc người dân và ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên thế giới. Chúng tôi đề nghị nhà nước đưa ra mục tiêu đến năm 2020 phải thực hiện toàn dụng lao động, không còn ai phải miễn cưỡng ra nước ngoài chỉ vì sinh kế.

Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn. Cho đến nay trí thức trong và ngoài nước đã đề xuất nhiều chiến lược, chính sách về các vấn đề này nhưng không được nhà nước quan tâm thực hiện. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề nghị nhà nước cần tập trung những chuyên gia có trình độ, thành lập một bộ phận chuyên trách để xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh nhân và trí thức. Việt Nam hiện nay cũng có những cơ quan như Bộ Kế hoạch & Đầu tư hay Bộ Công thương nhưng quyền hạn liên quan tới vấn đề này bị phân tán, ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ với cơ quan hay doanh nghiệp nhà nước, vì vậy thường khó có thể đề xuất được những chính sách hiệu quả, hoặc do phải cân nhắc lợi ích của quá nhiều đối tượng nên những nội dung thống nhất được cũng mang tính thỏa hiệp, chung chung.

Về xây dựng kết cấu hạ tầng, chúng tôi đề nghị hoãn kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc vì chưa cần thiết, tốn kém lớn và đã được chứng minh bằng các phân tích khoa học là không có hiệu quả. Thay vào đó, cần tu bổ nâng cấp đường sắt Thống Nhất, mở rộng mạng lưới đường sắt phổ thông đến vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Bắc, đồng thời xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam và xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ nối nông thôn với đường sắt và đường cao tốc này, nhất là nối nông thôn với các đô thị gần đường cao tốc. Kết cấu hạ tầng như vậy mới thúc đẩy công nghiệp hóa nông thôn.

Liên quan đến phát triển nông thôn, việc cải cách chế độ hạn điền, tư hữu hóa sở hữu ruộng đất cần được đẩy mạnh. Chế độ hộ khẩu đã được cải thiện nhiều nhưng mỗi đô thị lại có các quy chế riêng, cần cải cách theo hướng tự do hóa việc thay đổi chỗ ở hơn nữa để người dân khi đến đô thị làm việc có thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông thôn. Với sự phân tán, manh mún của ruộng đất hiện nay, việc tăng năng suất nông nghiệp gặp khó khăn. Tăng năng suất nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.

Đối với hoạt động của doanh nghiệp, thị trường lao động hiện nay có vấn đề không ăn khớp giữa cung và cầu: Ở các khu công nghiệp tại các thành phố lớn bắt đầu có hiện tượng thiếu lao động, doanh nghiệp khó tuyển dụng số lao động cần thiết, mặc dù ở nông thôn vẫn còn lao động dư thừa. Nguyên nhân là do thị trường lao động chưa phát triển, cung và cầu không gặp nhau. Một nguyên nhân nữa là chất lượng lao động (trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, khả năng tiếp thu tri thức về hoạt động của doanh nghiệp,…) không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Biện pháp để cung cấp lao động một cách ổn định phải bao gồm chính sách ngắn hạn (phát triển thị trường lao động) và chính sách trung dài hạn (nâng cao chất lượng lao động, tăng cường giáo dục nghề nghiệp). Chính quyền địa phương ở nông thôn cần tích cực hơn nữa trong lĩnh vực này.

Nhà nước cần lắng nghe chuyên gia, trí thức về việc quyết định các dự án lớn. Đặc biệt, chúng tôi đề nghị tạm ngưng kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận vì những lý do chúng ta đã biết và các chuyên gia của ta cũng đã có những phân tích cho thấy dự án này qua tốn kém và chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn. Nhiều người trong chúng tôi cũng đã đề nghị ngưng kế hoạch khai thác bô-xit ở Tây nguyên vì các lý do về môi trường, an ninh, hiệu quả kinh tế, và sự lệ thuộc vào nước ngoài.

Vấn đề cuối cùng là cải cách doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn. Cần đặt các doanh nghiệp đó trong khung cảnh chung của luật pháp, xóa bỏ việc để hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh – dù dưới dạng Thủ tướng quản hay Bộ trưởng quản – và thay vào đó là Hội đồng quản trị độc lập và có nhiệm kỳ, do Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân bổ nhiệm, nhằm hạn chế sự thao túng của các nhóm lợi ích. Doanh nghiệp quốc doanh dùng tiền của dân và nhằm phục vụ dân, do đó phải có tiếng nói của đại diện nhân dân. Hội đồng quản trị có đại diện của dân do các tổ chức hội chuyên nghiệp và Mặt trận Tổ quốc đề cử, có đại diện của người tiêu dùng chính do các ngành sử dụng đề cử, có các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp do các hội chuyên gia đề cử. Hội đồng quản trị sẽ bổ nhiệm chủ tịch công ty hay tập đoàn. Để cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và thực sự phục vụ nhân dân thì phải có các tổ chức chỉ đạo, kiểm tra nghiêm túc. Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp phải hạn chế, không thể để cho chính quyền các cấp tự do lập ra như hiện nay. Đặc biệt, phải công khai, minh bạch trong việc cấp vốn, việc cấp và sử dụng các nguồn lực quốc gia cho các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài những trường hợp đặc biệt ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước đã được công khai, minh bạch, chính sách cần bảo đảm công bằng cơ hội, bảo đảm hiệu quả sử dụng và không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt giữa các công ty, kiểm soát và hạn chế việc hỗ trợ các nguồn lực quốc gia theo kiểu chủ nghĩa tư bản thân hữu.

Trở lại mục lục

4. Về văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và công nghệ

Chúng tôi có mấy đề nghị cụ thể sau:

a) Cần có chính sách ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo đức xã hội. Tăng cường quảng bá và khuyến khích những giá trị phổ quát, tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ, quyền con người,… Đồng thời, phục hồi những giá trị văn hóa truyền thống tích cực để làm nền tảng cho các ứng xử văn hóa, các chuẩn mực đạo đức trong sinh hoạt xã hội. Song song với việc này cần tích cực bảo tồn các di tích văn hóa, lịch sử của dân tộc và ngăn chặn sự xâm thực không chọn lọc của văn hóa ngoại lai, đặc biệt là từ Trung Quốc.

b) Cần giảm các hình thức thi đua, tuyên dương, trao huân chương như hiện nay: Các cơ quan, các đoàn thể tổ chức quá nhiều lễ kỷ niệm những mốc hoạt động (20 năm, 30 năm, v.v.) và vận động để được nhận huân chương. Đây là hình thức tốn kém thì giờ, ngân sách mà không có hiệu quả, chưa kể đến những tiêu cực trong quá trình xin-cho vốn rất phổ biến. Phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh cũng không thật sự hiệu quả vì dân chúng thấy tình trạng tham nhũng ngày càng trầm trọng, người cần học tập đạo đức Hồ Chí Minh (cần kiệm liêm chính chí công vô tư, …) trước hết phải là những người ở cấp lãnh đạo và quản lý nhà nước. Tổ chức học tập nghị quyết của Đảng sau các kỳ đại hội như cách làm hiện nay cũng tốn kém và làm ảnh hưởng đến việc quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương. Thay vào đó nên áp dụng các hình thức khác thích hợp và ít tốn kém thì giờ, ngân sách.

c) Việc cải tổ giáo dục được bàn quá nhiều trong thời gian qua nhưng không đưa lại kết quả. Do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của giáo dục, chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn.

Một trong những nội dung cải cách cấp bách phải là nâng cao vị thế của người thầy, bắt đầu từ đồng lương đủ sống và nuôi gia đình. Từ đó tiến đến việc thiết lập lại sự trung thực trong học tập và thi cử, trả lại tính trong sáng của tuổi trẻ cho học trò, tạo điều kiện cho những tài năng nảy nở.

Một nội dung nữa là tôn trọng quyền tự do học thuật và tư tưởng ở đại học cũng như trong các hoạt động trí thức, văn hoá nghệ thuật, tạo ra sức thu hút đối với tuổi trẻ và qua đó giúp thế hệ trẻ có động lực phấn đấu mạnh mẽ, có ý thức công dân cao và hoài bão phát triển đất nước. Nhân đây chúng tôi cũng đề nghị Thủ tướng hủy bỏ Quyết định 97 đòi hỏi trí thức chỉ được góp ý riêng với các cơ quan có thẩm quyền.

d) Cụ thể hóa các biện pháp làm cho giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Triệt để thực hiện miễn phí bậc tiểu học và trung học cơ sở (chậm nhất là đến năm 2015) và trung học phổ thông (đến năm 2020). Song song với việc nâng cấp các đại học đang có, cần có ngay kế hoạch xây dựng một hoặc hai đại học chất lượng cao, trong đó nội dung giảng dạy, cơ chế quản lý, và trình độ giáo sư cũng như tiêu chuẩn đãi ngộ tương đương với các đại học tiên tiến ở châu Á. Về các đại học và trường cao đẳng ngoài công lập, cần có biện pháp chấn chỉnh giải quyết ngay những nơi không đủ chất lượng và có quy chế để ngăn ngừa hiện tượng kinh doanh giáo dục hiện nay. Ngoài ra, cần ban hành các sắc thuế khuyến khích doanh nghiệp và những cá nhân có tài sản đóng góp vô vị lợi (chủ yếu là tặng không) cho sự nghiệp giáo dục. Những vấn đề này cũng cần có kế hoạch thực hiện cụ thể trước năm 2015.

Cần tăng cường mở rộng và xây dựng thêm các trường, các khoa liên quan khoa học tự nhiên và công nghệ, xây dựng nhiều trường cao đẳng công nghệ để cung cấp đủ lao động cho công nghiệp hoá trong giai đoạn tới. Hiện nay, một mặt, trong nhiều ngành, sinh viên tốt nghiệp ra truờng không có việc làm, trong khi một số ngành về công nghệ tin học, điện tử, hoá học, kế toán, nông cơ, v.v.. thì nguồn cung cấp thiếu hoặc không đủ chất lượng. Chính sách sắp tới cần chú trọng đầu tư xây dựng thêm các ngành ở các lĩnh vực này và cải thiện chương trình, nội dung giảng dạy để nâng cao chất lượng. Mặt khác, nhu cầu về lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng kỹ thuật, cao đẳng kế toán,… đang và sẽ tăng nhanh nhưng khả năng cung cấp còn rất hạn chế. Tâm lý coi thường bậc trung cấp và cao đẳng trong xã hội Việt Nam rất lớn. Cần có chính sách khuyến khích học tập trong các bậc học này, chẳng hạn tăng cường chế độ cấp học bổng và quan tâm giới thiệu việc làm cho học viên sau khi ra trường. Tóm lại, cần đổi mới thể chế giáo dục và đào tạo hiện nay mới có thể thực hiện toàn dụng lao động và đẩy mạnh công nghiệp hoá trong thập niên 2010.

Nhiều cải cách trong giáo dục cũng nên được áp dụng trong y tế: tăng đầu tư xây dựng bệnh viện, xây dựng các cơ sở y tế ở nông thôn và phổ cập bảo hiểm y tế để người nghèo có thể tiếp cận dịch vụ y tế với phụ phí thấp. Nên có chính sách miễn phí khám bệnh và phí nhập viện cho người dân nghèo hoặc cận nghèo.

e) Tăng cường đầu tư và cải thiện việc sử dụng ngân sách cho nghiên cứu khoa học: Một trong những lý do thành quả nghiên cứu khoa học của ta còn khiêm tốn là do thiếu đầu tư. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ năm 2006 chẳng hạn chỉ có 428 triệu USD, chiếm khoảng 0,17% GDP. Trong cùng năm, Thái Lan đầu tư 1,79 tỉ USD (0,3% GDP) và Malaysia 1,54 tỉ (0,5% GDP). Đáng chú ý là Trung Quốc đầu tư 1,4% GDP cho khoa học và công nghệ trong năm 2010 và đặt mục tiêu đầu tư 4% GDP vào năm 2015. Ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ ở Việt Nam có đặc tính là tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất thay vì chi tiêu cho việc thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học. Ngoài việc tăng đầu tư, cần phải xem xét lại việc sử dụng ngân sách khoa học. Theo cách làm hiện nay thì chúng ta có thể có những thiết bị khoa học tinh vi, nhưng không có người sử dụng hiệu quả những thiết bị này. Trong thực tế, tình trạng “thiết bị trùm chăn” đó đã trở nên phổ biến. Như đã phân tích ở trên, nền khoa học nước ta hiện nay còn lệ thuộc quá lớn vào các đồng nghiệp nước ngoài vì thiếu chuyên gia có trình độ cao. Do đó, thay vì đầu tư xây thêm phòng thí nghiệm, cần chú trọng đầu tư vào đào tạo chuyên gia có trình độ chuyên sâu.

Chẳng những cần tăng đầu tư cho khoa học và công nghệ, chúng ta cần phải cải cách hệ thống phân phối ngân sách cho nghiên cứu khoa học và quản lý khoa học. Hiện nay, các đề tài nghiên cứu cơ bản ở cấp nhà nước do các nhà khoa học xây dựng đã được quản lý khá tốt bởi Quỹ KH&CN quốc gia (Nafosted). Nhưng với các loại đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển sản xuất ở các cấp – do cơ quan chủ quản ra đề tài, kêu gọi các nhà nghiên cứu nộp đơn xin và các cơ quan chủ quản xét duyệt và thẩm định – lại chưa có sự tham gia đúng mức của các nhà chuyên môn. Vì lý do này nhiều đề tài nghiên cứu của các bộ ngành, địa phương đề ra không theo kịp trào lưu và định hướng của khoa học quốc tế và nhu cầu thực tế.

Trở lại mục lục

5. Chiến lược đối ngoại

Trong chiến lược đối ngoại của Việt Nam hiện nay, Trung Quốc, Mỹ và ASEAN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

“Đường lối ngoại giao của Việt Nam là thân thiện với mọi nước”: nguyên tắc đó luôn luôn là lý tưởng. Nhưng lý tưởng đó cũng luôn luôn va chạm với một thực tế mà không nước nào tránh khỏi: đó là thực tế chiến lược mà vị trí địa dư là yếu tố then chốt.

Chẳng hạn quan hệ của ta với Trung Quốc. Dù Việt Nam muốn chân thành làm bạn với Trung Quốc đến đâu đi nữa, vị trí địa dư của Việt Nam cũng bắt buộc ta phải đồng thời nhìn Trung Quốc như một vấn đề an ninh cốt tủy và thường xuyên. Không việc gì ta phải giấu diếm quan tâm sinh tồn đó bằng 16 chữ vàng. Càng giấu, ngôn từ và hành động ngoại giao của ta lại càng để lộ yếu kém, sợ hãi, khiếp nhược. Chỉ bằng cách nói thẳng với Trung Quốc: “Nam quốc sơn hà nam đế cư”, ta mới có thể làm bạn với Trung Quốc trên một vị thế không phải là khúm núm, thần phục. Ngày xưa, chỉ có ta với Trung Quốc thôi, ngoài trứng với đá không có ai khác, vậy mà tổ tiên ta vẫn có thể hiên ngang nói thẳng như thế, huống hồ bây giờ, thế giới đổi khác, quan hệ chiến lược có thể mở rộng với nhiều nước khác, cho phép Việt Nam lập hàng rào chiến lược bằng những quan hệ đặc biệt với nhiều nước.

Trung Quốc chắc phải hiểu cái thế tất yếu đó của Việt Nam. Cho nên họ vừa dụ dỗ, vừa uy hiếp để Việt Nam không thiết lập quan hệ đặc biệt với Mỹ và ngay cả không mơ tưởng đến một sách lược cân bằng lực lượng như nhiều nước trong khối ASEAN công khai áp dụng. Việt Nam có gì khác với các nước ASEAN khác khiến Trung Quốc có thể uy hiếp được? Không phải vì cái vị thế “núi liền núi sông liền sông” trong địa dư mà chính vì “núi liền núi sông liền sông” trong tư tưởng. Chẳng có ai phản đối: văn hóa Trung Quốc đã từng sáng chói cả một vùng trời Đông Á, ta chịu ảnh hưởng không phải là chuyện lạ, chuyện dở. Chuyện dở là chịu ảnh hưởng mà không biết sáng tạo như Nhật Bản. Chuyện dở là chịu ảnh hưởng đến cái mức phải làm cho giống nguyên bản để khỏi bị xem là man di. Từ trong tư tưởng, Trung Quốc đã là cái khuôn để rập theo. Họ Khổng giáo thế nào, ta Khổng giáo thế ấy. Họ Mao, ta cũng đã từng Mao. Họ đang là gì, ta cũng đang thế ấy. Suốt cả thế giới châu Á, có lẽ ngoài Việt Nam và Bắc Triều Tiên, không có nước nào làm cái bóng dưới mặt trời tư tưởng của họ. Trung Quốc biết rõ như thế, việc gì họ chẳng nắm cái điểm yếu đó để dụ và đe? Họ biết rõ ta sẽ không nghĩ đến cái thế cân bằng lực lượng, vì từ trong tư tưởng ta đã không có ý niệm cân bằng, đã lựa chọn nghiêng về một phía, đã nhượng bộ họ trên khắp lĩnh vực.

Họ lại còn tha hồ nắm cái điểm yếu đó vì biết chắc rằng không ai muốn sát cánh với ta thực sự khi quan hệ thân sơ của ta không rõ ràng. Về ngoại giao, dĩ nhiên ta cần giao hảo thân thiết với Trung Quốc như với Nhật, với ASEAN, nhưng về chiến lược, cả lịch sử lẫn thực tế ngày nay không cho phép ta xây dựng an ninh trường kỳ trên tư tưởng trụ cốt “Trung Quốc là bạn đặc biệt”. Ta không minh bạch trên điểm đó, ai sẽ tin ta? Ai sẽ liên minh chiến lược với ta để ngăn chận kẻ mà ta vẫn nhận là “bạn đặc biệt”? Thế nhưng trên thực tế ta lại không thể minh bạch được vì một đằng quyền lợi quốc gia đòi hỏi ta phải cảnh giác Trung Quốc, một đằng tư tưởng chính thống lại xem Trung Quốc là bạn đặc biệt. Mâu thuẫn đó phải chấm dứt thì quan hệ chiến lược mới phân minh.

Vậy ai là đồng minh chiến lược với ta? Đồng minh ở đây không có nghĩa là gia nhập vào một liên minh quân sự mà bao gồm các trường hợp những nước có cùng quan tâm chiến lược trong các quan hệ ngoại giao. Trong định nghĩa rộng đó, thực tế ngày nay cho thấy dù muốn dù không chỉ có Hoa Kỳ mới có thể trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam trong việc thiết lập thế cân bằng lực lượng để ta giữ nước. Câu hỏi duy nhất còn có thể đặt ra là: nước Mỹ có sát cánh với ta để cùng ta bảo vệ những quyền lợi thiết thân nhất của ta? Cụ thể, nước Mỹ có thể cùng ta ngăn chận bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông?

Nước Mỹ không dại gì trả lời câu hỏi đó rành rọt và công khai. Câu hỏi đó, chính ta phải trả lời, và chỉ ta mới trả lời rành rọt được mà thôi. Nếu ta làm cho người Mỹ thấy rằng quyền lợi của họ và quyền lợi của ta là một, không những chỉ trên Biển Đông mà cả trong chiến lược lâu dài của họ ở Đông Á và cả Á châu thì hai nước sẽ sát cánh với nhau. Hơn nữa, nếu ta giúp củng cố các thể chế ASEAN để vừa tăng đoàn kết và ổn định trong khu vực vừa tạo cho Mỹ cơ hội vận động nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới ủng hộ sự hiện diện của Mỹ tại Đông Nam Á thì ta lại càng thắt chặt quyền lợi của Mỹ với quyền lợi của ta hơn.

Nhưng quyền lợi mà thôi chưa đủ để xây dựng một quan hệ chiến lược bền vững, trường kỳ. Bởi vì đe dọa của Trung Quốc là trường kỳ, giải pháp đối phó cũng phải trường kỳ để quan hệ đồng minh (theo nghĩa rộng nói trên) không phải là quan hệ giai đoạn, chiến thuật. Cái gì tạo ra chất lượng cho một quan hệ chiến lược bền vững? Địa-chính trị ngày nay nói rõ: tư tưởng, văn hóa là yếu tố chiến lược cùng với vị trí địa dư. Chính thể dân chủ ở Đài Loan là yếu tố chiến lược gắn kết thêm với yếu tố quyền lợi trong quan hệ giữa Mỹ và xứ ấy. Nước Nhật quân phiệt phải dứt khoát viết lại hiến pháp để trở thành đồng minh chiến lược bền vững nhất của Mỹ trên thế giới. Do đó, cải cách thể chế theo hướng dân chủ hóa như đã trình bày ở trên ngoài mục đích tăng nội lực còn là điều kiện để mở rộng chiến lược ngoại giao.

Ai cũng biết: thực chất của ý thức hệ hiện nay ở Trung Quốc là chủ nghĩa dân tộc nước lớn. Dưới lớp áo xã hội chủ nghĩa, trái tim của Trung Quốc ra lệnh cho dân tộc họ phải trả thù nhục nhã của thế kỷ 19, nhanh chóng chiếm lĩnh địa vị đại cường, ngự trị như bá chủ trên vùng Đông Á. Làm sao ta đồng chí với họ được? Ngược lại, đó là tư tưởng mà ta phải triệt để chống như một đe dọa đè nặng trên sự sống còn của dân tộc. Tư tưởng chính trị của Việt Nam là tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng trên quan tâm duy nhất là độc lập của dân tộc. Vì độc lập, ta phải đoàn kết dân tộc, lấy đoàn kết làm tư tưởng, lấy dân tộc làm mục tiêu chứ không phải một lý thuyết nào xa lạ với thực tế mà người dân đang thấy trước mắt. Vì yếu tố tư tưởng quan trọng như vậy, chúng tôi đề nghị Việt Nam hãy dứt khoát cắt rốn tư tưởng với Trung Quốc. Ta đã có một Hồ Chí Minh đặt nền móng dân chủ cho một nước Việt Nam độc lập khác hẳn nền móng mà Mao đã đặt cho Trung Quốc năm 1954. Ta đã lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư tưởng chỉ đạo. Tư tưởng độc lập đó cần phải được vun xới sâu hơn trong bối cảnh ngày nay. Cần suy nghĩ rằng: một phần lớn tư tưởng đó đã được thoát thai từ tình trạng chiến tranh, hết chiến tranh thuộc địa đến chiến tranh chia cắt trong một thế giới chia hai theo lằn ranh ý thức hệ. Bây giờ nước ta không còn chiến tranh nữa, đã bắt đầu phát triển lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lại hội nhập vào một thế giới hoàn toàn đổi khác trong đó ý thức hệ tranh chấp ngày xưa đã biến mất rồi. Bối cảnh hoàn toàn đổi khác, tất nhiên tư tưởng của lãnh tụ cũng phải được hiểu theo một tinh thần mới, phải được chắt lọc lại, chỗ nào là tinh túy trường kỳ, chỗ nào là chiến thuật giai đoạn, chỗ nào thích hợp cho dân chủ ngày nay, chỗ nào đã đáp ứng xong rồi những nhu cầu trong quá khứ. Toàn dân sẽ tham gia thực hiện nền móng dân chủ mà lãnh tụ đã đặt viên gạch đầu tiên từ thuở khai sinh nhà nước. Ngôi nhà sẽ xây kết hợp hài hòa tư tưởng Hồ Chí Minh với những tư tưởng dân chủ của thế giới, vạch ra một mô hình dân chủ thích hợp với hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam. Mô hình đó cũng sẽ không chối bỏ nguyên tắc căn bản của chính thể hiện nay là “đảng lãnh đạo”. Vấn đề là phải thiết lập cho kỳ được dân chủ thật sự trong đảng và định nghĩa lại cho minh bạch thế nào là “lãnh đạo” theo ý kiến của toàn dân.

Không khó khăn gì để thể chế hóa hai vấn đề đó. Nhân dân và trí thức Việt Nam không thiếu óc sáng tạo. Thách thức là có ý muốn hay không. Từ lâu, vấn đề đã được đặt ra, nhưng chẳng bao giờ giải quyết. Thời cuộc ngày nay không cho phép trì hoãn nữa. Không những lòng tin của nhân dân có hạn mà an ninh của đất nước bắt buộc phải thế. Đe dọa từ phương Bắc buộc ta phải từ giã con đường cụt trong tư tưởng. Hoặc ta không có đồng minh, hoặc có đồng minh thì phải minh bạch, không ai hứng đạn cho ta nếu không tin ta.

Tất nhiên ai cũng có thể chất vấn: đồng minh (trong ý nghĩa cùng một quan tâm chiến lược) với Mỹ, ta có mất độc lập chăng? Trong lịch sử thế giới từ sau 1945, có hai kinh nghiệm đồng minh trong đó một bên là siêu cường, một bên là nước bại trận, mất cả chủ quyền, mất cả tiềm năng kinh tế, mất cả quân đội: đó là nước Đức và nước Nhật. Cả hai nước đều trở thành cường quốc. Nước Đức liên minh chiến lược với Mỹ nhưng không mất độc lập ngoại giao với Liên Xô. Nước Nhật liên minh với Mỹ nhưng không mất độc lập ngoại giao với Trung Quốc. Quan hệ chiến lược có ảnh hưởng trên quan hệ ngoại giao, nhưng không trùng hợp. Ngay cả Hàn Quốc, liên minh với Mỹ, họ có mất độc lập ngoại giao với ai đâu?

Tại sao họ không mất? Tại vì hai lẽ. Thứ nhất, họ biết vận dụng nội lực, xây dựng ở bên trong một thể chế lành mạnh, hữu hiệu, đưa đất nước họ từ tình trạng lệ thuộc, độc tài, lên tình trạng dân chủ, cường quốc. Sức mạnh bên trong là yếu tố không thể không có để độc lập với thế giới. Chính vì vậy mà toàn thể nhân dân ta khát vọng một cải cách toàn diện để lãnh đạo cùng với toàn dân đưa đất nước lên địa vị độc lập, độc lập với Trung Quốc, dĩ nhiên, và độc lập với cả Mỹ.

Thứ hai, họ biết vận dụng thời cuộc quốc tế để không trở thành chư hầu của một cực. Hiện nay, ai cũng tưởng chừng như Mỹ và Tây Âu đang trên đà đi xuống, Trung Quốc đang ở thế thượng phong bất khả cưỡng. Đúng vậy. Nhưng tình hình đó lại có một mặt tích cực khác cho ta mà chính ta cần phải thấy rõ: cái thế thượng phong trịch thượng, ngạo mạn, thủ đoạn của Trung Quốc hiện nay là vấn đề của cả thế giới dân chủ, hòa bình, tự do, chứ không phải riêng gì của ta. Việt Nam đang có một cái thế rất lớn, lớn hơn cả thời 1945, là đứng chung với cả thế giới đó trong một mặt trận chung. Chúng tôi nói “đồng minh” hoặc “quan tâm chiến lược” là nói trong ý nghĩa đó. Việt Nam “đồng minh” với cả thế giới đó chứ không phải với riêng ai. Việt Nam “đồng minh” với cả những lực lượng tiến bộ, dân chủ, trong lòng xã hội Trung Quốc. Vấn đề là ta có đủ quyết tâm làm như thế hay không, thế giới có xem ta như vậy hay không mà thôi. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở, là quốc sách để cứu nước, chưa bao giờ có.

Việt Nam sẽ không bao giờ là chư hầu của ai nếu ta vận dụng được sức lực của toàn dân. Chọn dân tộc và chọn thế giới dân chủ, hòa bình, tự do, tôn trọng môi trường thì mới thoát ra được cái ách của Trung Quốc, hiện nay và mai sau.

Dĩ nhiên, dù đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, ta vẫn coi trọng quan hệ với Trung Quốc trên nguyên tắc bình đẳng. Vì là láng giềng gần, sự giao lưu mật thiết giữa các tầng lớp dân chúng, nhất là giữa giới trí thức và lớp trẻ để tạo sự tương kính, hiểu biết nhau. Đó cũng là yếu tố góp phần gìn giữ hòa bình. Tuy nhiên, Việt Nam là nước nhỏ hơn nhiều về nhiều mặt, không thể theo phương châm “hợp tác toàn diện”, mà phải chọn lựa lĩnh vực và mức độ.

Riêng về vấn đề Biển Đông, chúng tôi có hai đề nghị: Một là, Quốc hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo, một nghị quyết đặc biệt về Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, khẳng định đó không phải là sự thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Trung Quốc đã phản bội Việt Nam khi dùng công hàm đó để chủ trương chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tuyên cáo này vừa để thanh minh trước dư luận quốc tế vừa xóa bỏ những ngờ vực trong không ít người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng thêm tình đoàn kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm. Thứ hai, trên thực tế Việt Nam không làm chủ hết cả quần đảo Trường Sa nên cần đoàn kết với Philippines, Malaysia và Brunei trong việc gìn giữ quần đảo này và chống lại Đường Lưỡi Bò của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt Nam chủ động đưa ra đề án với ASEAN đặt tên Biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và nhiều nước khác gọi là biển Nam Trung Hoa) là Biển Đông Nam Á.

Trở lại mục lục

E. Kết luận

Trên đây là phân tích sơ lược về thực trạng của Việt Nam và đại cương về các giải pháp nhằm cải cách toàn diện để phát triển đất nước. Những nội dung chi tiết hơn không được đề cập để tránh loãng thông tin. Tuy nhiên, qua đó cũng có thể rút ra kết luận:

Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch sử. Kinh tế, văn hóa giáo dục, khoa học đều suy thoái, nền tảng đạo đức xã hội lung lay và trên nhiều mặt ngày càng lệ thuộc vào nước láng giềng phương Bắc. Vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam cần làm một cuộc cách mạng mới để cứu đất nước khỏi nguy cơ này và mở ra con đường mới để dân tộc tiến nhanh về phía trước, để đất nước phát triển nhanh chóng, giàu mạnh và tự chủ. Cốt lõi của cuộc cách mạng mới là dứt khoát từ bỏ sự ràng buộc của một chủ nghĩa, một học thuyết đã không còn sức sống ở cả Việt Nam và trên thế giới. Gắn chặt với học thuyết ấy, chủ nghĩa ấy cũng làm nước ta ngày càng lệ thuộc vào quỹ đạo của phương Bắc ngày càng nặng.

Trí tuệ, khí khái, bản lĩnh và lòng yêu nước của tiền nhân ta là những bài học vô cùng phong phú, quý giá. Bây giờ là lúc phải học lại, học hơn nữa tầm nhìn chiến lược “khoan thư sức dân” của Trần Hưng Đạo, “khai dân trí, chấn dân khí” của Phan Châu Trinh, tư tưởng dân chủ, đoàn kết dân tộc và tinh thần học tập phóng khoáng của Hồ Chí Minh. Và hơn bao giờ hết chúng ta phải kế thừa khí phách Nguyễn Trãi “… Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương, tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”.

Mong rằng với sự sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước chúng ta sẽ nhanh chóng ra khỏi thời kỳ khó khăn nghiêm trọng hiện nay và bước vào một kỷ nguyên phát triển mới./.

Đồng ký tên

Hồ Tú Bảo Giáo sư Tin học, Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Nhật Bản, Nhật Bản.
Nguyễn Tiến Dũng Giáo sư Toán học, Đại học Toulouse, Pháp.
Trần Hữu Dũng Giáo sư Kinh tế học, Đại học Wright State, Hoa Kỳ.
Giáp Văn Dương Nhà nghiên cứu Vật lý, Đại học Quốc gia Singapore.
Nguyễn Ngọc Giao Nhà báo, nguyên Giảng viên Toán, Đại học Paris VII, Pháp.
Ngô Vĩnh Long Giáo sư Sử học, Đại học Maine, Hoa Kỳ.
Vĩnh Sính Giáo sư danh dự (Sử học), Đại học Alberta, Canada.
Nguyễn Minh Thọ Giáo sư Hóa học, Đại học Leuven, Bỉ.
Trần Văn Thọ Giáo sư Kinh tế học, Đại học Waseda, Nhật Bản.
Cao Huy Thuần Giáo sư danh dự (Chính trị học), Đại học Picardie, Pháp.
Nguyễn Văn Tuấn Giáo sư Y khoa, Đại học New South Wales, Úc.
Hà Dương Tường Giáo sư danh dự (Toán học), Đại học Công nghệ Compiègne, Pháp.
Vũ Quang Việt Chuyên gia tư vấn Thống kê Kinh tế cho Liên Hiệp Quốc, Myanmar, Philippines và Lào; nguyên chuyên viên cao cấp Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ.
Phạm Xuân Yêm Nguyên Giám đốc nghiên cứu Vật lý, Đại học Paris VI và Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học, Pháp.

 

 Trở lại mục lục

Posted in Economic, Government, Law, Opinions, Overview | Leave a Comment »

Định nghĩa yêu nước của giới trẻ Việt

Posted by BEAR trên Tháng Năm 19, 2011

Nhiều cách thể hiện lòng yêu nước

2011-05-18

Trong chương trình kỳ này, 3 bạn trẻ là Dung ở Hà Nội, Hà Thanh ở Sài Gòn và Trình ở California, Hoa Kỳ, sẽ tiếp tục câu chuyện về chủ đề yêu nước.

Hệ thống Đảng không giúp phát huy lòng yêu nước (phần 2)

2011-05-16

Khánh An rất vui được tái ngộ với quý vị và các bạn trong chương trình Café Wifi.

Định nghĩa yêu nước của giới trẻ Việt – phần 1

2011-05-05

Khánh An chào đón quý vị và các bạn đến với chương trình Café Wifi.

Posted in Opinions, Question | Leave a Comment »

Suy nghĩ về một sự tích trong đạo Phật…

Posted by BEAR trên Tháng Tư 17, 2011

TÍNH DỤC, LUÂN LÝ, BÒ ĐIÊN – Tạp chí LE POINT phỏng vấn Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Hoang Phong chuyển ngữ

Trích: “Quý vị có biết sự tích sau đây về tiền thân của Đức Phật hay không : có một lần Ngài cùng với năm trăm người khác đang lênh đênh trên một chiếc ghe lớn. Trong số năm trăm người ấy có một tên sát nhân mưu đồ giết hết 499 người kia để cướp tiền bạc của họ. Vị tiền thân Đức Phật cố thuyết phục hắn nhưng vô ích. Ngài tự hỏi :”Vậy phải làm sao bây giờ ? Nếu giết tên sát nhân sẽ cứu được 499 mạng người nhưng phải gánh chịu nghiệp ác ; nếu không giết hắn, hắn sẽ giết hết anh chị em của mình trên chiếc ghe này”. Sau cùng vị tiền thân quyết định giết tên sát nhân và chấp nhận gánh chịu nghiệp ác. Tuy nhiên hành động đó của vị tiền thân không những cứu được 499 mạng người mà còn giúp tên sát nhân tránh khỏi nghiệp hung dữ vì đã không giết hại những người vô tội. Hành động ấy tất nhiên cũng mang lại nghiệp lành !”

–>

Đây là một đoạn mà tôi thấy ấn tượng. Nó cho thấy một cách chọn lựa rõ ràng trong hành động vì chính nghĩa, vì chúng sinh…Hành động chống cái ác không phải bao giờ cũng khoác một chiếc áo thiện lương vẹn toàn…Một chi tiết này cũng có thể thấy tinh thần đấu tranh chống cái ác , bảo vệ con người , sự sống và lẽ phải ở Phật giáo cũng mạnh mẽ không kém gì bất cứ tôn giáo nào khác.
Giống như một số bộ phim Mỹ, ta sẽ thấy nhân vật chính chọn lựa cách làm phi pháp luật để bảo vệ pháp luật, nhưng vì tôn vinh giá trị bảo vệ, đạo diễn thường cho phép nhân vật chính không phải chịu án theo pháp luật. Còn ở đây, ta cũng có sự chọn lựa hành động giết người để cứu người…Nhưng trọn vẹn hơn, đó là sự chịu trách nhiệm với chọn lựa đó, chấp nhận gánh chịu nghiệp ác cho bản thân mình…Và như thế vẻ đẹp ấy càng thêm trọn vẹn…

Tất nhiên, hành động giết người kể trên là sự chẳng đặng đừng được, sau khi đã dốc hết lòng thuyết phục.

Bài học này có thể áp dụng cho rất nhiều trường hợp khó khăn và thực sự là lối thoát cho mọi bế tắc: Lòng thiện nhân, sự kiên nhẫn, sự can đảm, sự dấn thân, sự gánh chịu trách nhiệm


Posted in Opinions | Leave a Comment »

Tuổi trẻ: Giàu thông tin, nhưng còn bản lĩnh?

Posted by BEAR trên Tháng Tư 8, 2011

Hơn 80% giới trẻ không dám dấn thân vào đời

Tuổi trẻ: Giàu thông tin, nhưng còn bản lĩnh?

Hai mái đầu bạc, Nhà văn Nguyên Ngọc và GS-TS Lê Ngọc Trà, hai nhà văn hóa đã hàn huyên trong một buổi gặp gỡ, với những khắc khoải, suy tư về bản lĩnh thế hệ trẻ hôm nay, những người đang tiếp nối thế hệ của họ đưa đất nước tiếp tục phát triển.

Nhà văn Nguyên Ngọc: Những ngày gần đây, tôi suy nghĩ nhiều về lớp trẻ hiện nay. Nói cho cùng, vận mệnh đất nước ở trong tay họ. Nếu suy nghĩ về tương lai đất nước, nói cách nào đó là suy nghĩ về lớp trẻ.

Nói thật, những năm trước đây tôi bi quan cho rằng lớp trẻ thụ động, ý thức xã hội ít, nhạt nhẽo, thậm chí một bộ phận nào đó có những biểu hiện không tốt. Nhưng, vài năm gần đây, tôi suy nghĩ lại, họ có ý thức xã hội đấy. Những biểu hiện của họ đi vào chiều sâu tư duy hơn.

Và, khi chúng ta thấy sự im lặng của họ trước mọi vấn đề xã hội, đó là điều chúng ta phải suy nghĩ! Thực sự họ đang nghĩ gì? Biểu hiện bên ngoài có song hành với suy nghĩ bên trong tâm hồn thực?

Tuổi trẻ im lặng: vấn đề cần suy nghĩ

GS-TS Lê Ngọc Trà: Tôi nghĩ, không phải cái gì người lớn áp đặt cũng được tuổi trẻ chấp nhận cả đâu. Im lặng cũng là thái độ đấy. Anh có thấy một hiện tượng: Ước mơ của tuổi trẻ hiện nay là đi du học bất cứ nước nào. Ra đi, các em mang theo hoài bão tiếp thu kiến thức mới, song hình như đấy cũng là sự phản ứng với nền giáo dục còn quá kém của chúng ta hiện nay. Có phải vậy không anh?

Nhà văn Nguyên Ngọc: Đúng. Lớp trẻ hiện nay, đa phần đều có tâm tư với nền giáo dục nước nhà. Trong cái im lặng hoặc vâng dạ của các em hôm nay, bao nhiêu phần trăm là sự thật? Tôi đã thấy trong nhiều trường hợp, ở một môi trường xã hội nào đó, các em có những biểu hiện, suy nghĩ rất khác. Bởi, nếu chúng ta áp đặt những suy nghĩ chủ quan của người lớn lên lớp trẻ, sẽ có hai tác hại: Thứ nhất, vô tình tạo ra người nói dối (trong bụng suy nghĩ khác dù ngoài vâng dạ), thậm chí cơ hội. Thứ hai, kìm hãm năng lực phát triển của họ.

GS-TS Lê Ngọc Trà: Tôi chia sẻ suy nghĩ này với anh Ngọc. Người lớn tuổi như chúng ta và lớp trẻ luôn có khoảng cách về hành động cũng như suy nghĩ, đó là tất nhiên. Nhưng, nếu khoảng cách đó đẩy tới trạng thái kìm hãm sự phát triển của tuổi trẻ, đó là sự nguy hiểm.

Tôi nghĩ, tuổi trẻ bây giờ có tiềm năng lớn về tri thức, thông tin, sức bật. Nhưng, vì sao hầu hết người lớn chúng ta đều cảm thấy họ dường như chưa lớn, chưa thể hiện được bản lĩnh trong mọi vấn đề của xã hội cũng như chính cuộc đời họ.

Tôi đã ray rứt, khi mới đây, trong một cuộc gặp mặt giữa thanh niên với một vài nhà lãnh đạo, giữa những khó khăn bộn bề của một đất nước đang cố vươn lên, trong bối cảnh suy thoái của nền kinh tế toàn cầu mà đất nước chúng ta không đứng ngoài, có những thanh niên đặt câu hỏi: Có nên yêu sớm?

Tôi hiểu tình yêu là thế nào với tuổi trẻ, nhưng liệu rằng ở một cuộc họp như thế có phải là lúc nêu những câu hỏi như vậy. Lỗi này thuộc về tuổi trẻ hay ai? Tôi nghĩ, lỗi thuộc về hoàn cảnh xã hội. Anh nghĩ sao?

Nhà văn Nguyên Ngọc: Nói cho thật, thế hệ chúng mình may mắn lớn lên trong một môi trường xã hội thuần hơn, sống với lí tưởng giải phóng đất nước. Còn thế hệ hôm nay, lớn lên trong hòa bình, trong một xã hội mở cửa bước vào toàn cầu hóa, cái lý tưởng thật sự không thể hiện trước mắt, mà mỗi con người phải tự tìm cho mình một mục đích để theo đuổi. Do đó, nếu không có sự dẫn dắt khoa học- tôi nhấn mạnh là khoa học- thì các em dễ mất phương hướng, sinh ra hoài nghi và chán chường. Từ đó sẽ sinh ra chán nản hoặc cơ hội.

Tôi đồng ý với anh. Lỗi không phải của tuổi trẻ, lỗi của môi trường xã hội.

Không dạy sống- sao rèn được bản lĩnh

Nhà văn Nguyên Ngọc: Xã hội hôm nay, với sự bùng nổ của internet và các phương tiện thông tin hiện đại, giới trẻ có tràn đầy thông tin không chỉ đến từng ngõ ngách trong nước mà cả toàn cầu. Đó là cái thế mạnh mà các em, các cháu đang hơn thế hệ cha ông. Nhưng, những kiến thức đó không tự nhiên mang đến cho người ta một lý tưởng sống.

Tôi cho vấn đề của con người không phải chỉ là thông tin. Vấn đề là cái lõi, cái tinh thần của thông tin đó như thế nào. Giáo dục hôm nay nhét đầy kiến thức cho con trẻ, đến độ chúng bội thực thông tin. Rồi với những thông tin đó, không xài thường xuyên sẽ dần quên hết. Và, con người sẽ lại sống với cuộc đời đầy xô bồ hiện nay như thế nào?

GS-TS Lê Ngọc Trà: Nãy giờ tôi dõi theo ý của anh, cuối cùng thấy chúng ta cùng gặp nhau ở một điểm: Giáo dục ở ta đang thiếu một triết lý, điều này nhiều nhà giáo dục, nhà nghiên cứu cũng nghĩ như tôi và anh.

Quan trọng nhất của giáo dục không chỉ là tri thức, mà còn là cách sống. Theo tôi, giáo dục phổ thông là dạy làm người, còn giáo dục đại học là dạy nghề.

Ông J. Dewey có một tư tưởng rất hay: Giáo dục chính là cuộc sống. Tôi cho đây là tư tưởng cực hay. Dạy đứa trẻ chính là dạy nó sống. Nó không biết sống cho đúng thì làm sao có đủ bản lĩnh trước cuộc đời.

Đã đến lúc phải xem lại toàn bộ chương trình giáo dục. Nhà trường quan trọng trước hết phải dạy người ta sống. Chứ không phải chỉ cung cấp tri thức, dạy hiểu biết, dạy tư duy, cho dù là tư duy sáng tạo.

Ở Singapore, vừa qua họ đã cho bớt giờ khoa học ở bậc tiểu học mà tăng giờ dạy kĩ năng sống ngoài xã hội cũng như trong gia đình. Bởi, con người dù hiểu biết, thông minh, sáng tạo đến mấy cũng không đủ làm con người có bản lĩnh.

Nhà văn Nguyên Ngọc: Ý anh hay. Từ thông tin đến tư duy, cũng vẫn chỉ là kỹ thuật, cái kỹ thuật tư duy trong đầu. Vấn đề là phải thao tác kỹ thuật đó như thế nào. Mà, tôi cho rằng để sống làm người có bản lĩnh, cái cảm là vô cùng quan trọng. Buồn thay, nay môn văn không dạy cho con trẻ cái cảm, mà biến thành một khoa học. Sai hết rồi!

GS-TS Lê Ngọc Trà: Bây giờ bên cạnh chỉ số IQ (thông minh), người ta còn đặt vai trò quan trọng của chỉ số EQ (cảm xúc).

Dân chủ, cần bản lĩnh từ cả hai phía

Nhà văn Nguyên Ngọc: Gần đây, ở Nga người ta có in lại quyển Những ý nghĩ không hợp thời của M.Gorki viết thời kỳ cách mạng Nga mới lật đổ Sa hoàng, trong đó ông nói: Cuộc cách mạng đã rất quan trọng và vĩ đại. Song, mới chỉ đưa những căn bệnh ngoài da vào trong nội tạng.

GS-TS Lê Ngọc Trà: Nhân anh nói tới M.Gorki, tôi nhớ tới Mandela, tôi xem ông là bậc hiền triết. Sau khi lãnh đạo việc xóa bỏ chế độ Apartheid, ông nói: Chúng ta chưa có tự do. Chúng ta mới giành được quyền để tự do. Các bệnh của dân tộc chúng ta còn nguyên xi. Suy nghĩ về dân tộc phải suy nghĩ tới mức như vậy. Phải có cuộc cải tạo dân tộc bằng văn hóa.

Bởi, lớp trẻ có thể biết nhiều, thông minh, song, một khi phần con người nhân văn nó chông chênh, rất nguy hiểm. Tư tưởng của Tổng thống Obama (Mỹ): Bản chất sự thay đổi của nước Mỹ không nằm ở vũ khí, không nằm ở sự giàu có mà nằm ở sự thay đổi tính nhân văn của dân tộc.

Nhà văn Nguyên Ngọc. Ảnh: VNN

Nhà văn Nguyên Ngọc: Tôi chia sẻ. Tuổi trẻ là tuổi lãng mạn, kéo dài 10-15 năm. Tới khi có gia đình, cái lãng mạn đã giảm nhiều. Nhạc sĩ Trần Long Ẩn cũng đã thốt lên trong lời ca: “Ai cũng có một thời trẻ trai…” Chính tuổi trẻ cần có lý tưởng để vươn tới. Mà, nói đến lý tưởng là nói đến cái chất lãng mạn của con người. Ở đây, xin đừng hiểu lãng mạn là “than cùng mây và khóc cùng gió”, mà là sự hướng thiện, khao khát lý tưởng, vươn lên cái đẹp trong cuộc sống. Phải tạo điều kiện cho tuổi trẻ giải phóng năng lực. Nhưng, tôi muốn đề cập đến vấn đề nhạy cảm: Dân chủ.

Chính sự dân chủ sẽ giúp thế hệ trẻ sẽ tìm thấy hoài bão đích thực của mình, chứ không phải là thứ hòai bão gán ghép cho họ. Làm sao trao cho người ta quyền dân chủ, mà người ta không lợi dụng nó để hành động bậy bạ.

Đó là bản lĩnh của nhà lãnh đạo, cũng như của nền giáo dục trong việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ, trong việc tạo cho họ một tình yêu gia đình- xã hội và cộng đồng, một nhân sinh quan đúng đắn. Chúng ta đã không giáo dục đầy đủ tính nhân văn cho tuổi trẻ, cũng như những định chất về luật pháp và đạo đức để sống trong một xã hội đang có những chuyển đổi dữ dội, nhưng lại cũng chưa được quản lý một cách khoa học, vì vậy ta mới lo sợ khi mở rộng cửa…

GS-TS Lê Ngọc Trà: Chính vì vậy, hiện nay có hiện tượng ở một bộ phận tuổi trẻ: Chuyện gì cũng có thể chém giết nhau được. Một khi thông tin thiếu cái lõi nhân văn, loạn là thế. Tôi cảm nhận, có một chỗ nào đó trong căn bệnh xã hội của chúng ta hiện nay chưa được tháo gỡ.

Phẩm chất thực sự của trí thức là nhân cách

Nhà văn Nguyên Ngọc: Nguy hiểm ở chỗ khi con người chỉ được cung cấp thông tin đơn thuần, họ sẽ trở nên khô khan, lạnh lùng và những tội ác sẽ đến từ đấy. Bởi, thông tin không tạo nên tâm hồn. Nói cho cùng, bản lĩnh chính là phẩm chất lãng mạn trong con người. Những con người vĩ đại, họ lãng mạn lắm.

GS-TS Lê Ngọc Trà: Khi người ta biết yêu cái đẹp, khó làm điều xấu. Khi anh biết rung cảm với một chiếc lá rơi, anh dễ rung động trước nỗi khổ của con người, nhân loại, lương tri anh thức dậy, chế ngự được dục vọng. Do đó, phải chuẩn bị cho con trẻ nhân cách, làm người bên cạnh trang bị tri thức.

Nhà văn Nguyên Ngọc: Tri thức tự bản thân nó luôn vươn tới sự hoàn thiện. Khi đạt đến sự hoàn thiện, tri thức có vẻ đẹp của nó, chứ không còn là kiến thức trần trụi. Khi nói tới trí thức, người ta thường nghĩ tới người có tri thức, có học thức. Thật ra, phẩm chất thực sự của người tri thức nằm ở nhân cách trí thức của anh ta.

GS-TS Lê Ngọc Trà: Đúng rồi. Nhân cách trí thức này rất quan trọng, nó thể hiện trước hết không phải ở những phẩm chất đạo đức thông thường: hiền lành, nhân hậu…Mà chủ yếu là khát vọng về chân lý và sự trung thành đến cùng với chân lý, sự thật. Theo tôi ở Việt Nam, đội ngũ tri thức hiểu theo nghĩa này còn rất mỏng.

Văn hóa chính là cái phanh

GS-TS Lê Ngọc Trà. Ảnh: Báo Việt Nam

GS-TS Lê Ngọc Trà: Tôi cũng muốn nói rõ hơn. Tuổi trẻ không thiếu thông tin, khoa học, cái họ thiếu chính là tính nhân văn trong các lõi thông tin đó. Và, điều gì sẽ xảy ra, nếu bản lĩnh của họ trước cuộc đời trở nên yếu ớt hoặc lệch lạc. Nhất là khi đất nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường, giữa những dông bão của thị trường, tuổi trẻ dễ xốc nổi, nếu bản lĩnh yếu liệu rằng họ có bị nghiêng ngả không.

Tất nhiên, kinh tế thị trường là bắt buộc, nhưng nó phải xây dựng trên nền tảng pháp lý, đạo đức lành mạnh, tương hợp, nếu không sẽ đẻ ra những hậu quả rất nguy hiểm.

Nhà văn Nguyên Ngọc: Kinh tế thị trường của ta hiện nay vẫn còn thời kỳ hoang dã, thiếu hầu hết những định chế đạo đức ràng buộc. Do đó, phát triển thế nào đó là hạnh phúc, và thế nào đó lại là đau khổ.

Bill Gates tham vọng và khao khát làm giàu, nhưng trong ông ta vẫn là con người lãng mạn, do đó đồng tiền ông ta làm ra đã dành phần lớn để cống hiến trở lại vì hạnh phúc của nhân loại qua công việc từ thiện.

GS-TS Lê Ngọc Trà: Tôi cũng nghĩ như anh, lãng mạn không hề mâu thuẫn với khát khao vươn tới. Và, văn hóa chính là cái phanh. Đất nước đang tăng tốc phát triển, chính lúc này lại cần cái phanh văn hóa để xã hội không lệch lạc.

Tôi cho rằng, thanh niên hiện nay đang chịu cái gánh rất nặng trong giai đoạn chuyển đổi của đất nước. Cùng một lúc, chuyển

  • từ nông thôn thành thành thị;
  • từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường,
  • từ chuyên chính sang dân chủ;
  • từ vô thần sang thừa nhận tự do tôn giáo,
  • từ sản xuất nhỏ sang sản xuất công nghiệp hóa…

Hàng loạt sự chuyển đổi đó lại đặt trên vai một xã hội còn nghèo nàn, lạc hậu, chịu không nổi bứt hết. Một sự đứt gãy văn hóa khủng khiếp. Không chỉ tuổi trẻ, mà tuổi già cũng khủng hoảng.

Nhà văn Nguyên Ngọc: Tôi thông cảm cho thanh niên đang đứng giữa dòng nước xiết. Chính vì vậy, lúc này chính văn hóa- giáo dục phải có sự vươn lên, dẫn dắt con người vượt qua khủng hoảng. Không tự nhiên mà trong diễn văn nhậm chức của mình cách đây không lâu, bà Hiệu trưởng Đại học Harvard nổi tiếng đã nói: Giáo dục đại học không chỉ lo cho bây giờ. Nó còn phải kết nối quá khứ với tương lai. Lo cho cả cuộc đời con người.


Posted in Children, Education, Question | Thẻ: | Leave a Comment »

Đừng tránh xa chính trị

Posted by BEAR trên Tháng Tư 7, 2011

Đừng tránh xa chính trị

Tôi đã sinh ra và trưởng thành trên một đất nước mà tôi thường xuyên nghe từ miệng của những người lớn chung quanh nào là “đừng có dính vô chính trị mà khổ thân” hoặc “ai làm chính trị thì kệ họ đi” hoặc “học theo 3 cái tượng kia kìa, bịt mắt, bịt tai, bịt miệng lại!” hoặc “thật thà như vậy thì không nên dính vào chính trị” hoặc “làm chính trị phải gian hùng, phải thủ đoạn, phải ác độc” hoặc “chính trị rất dơ bẩn không phải là chỗ cho người hiền đức” vân vân…   Nói tóm lại là những bài học tôi được người lớn dạy bảo có thể tóm gọn trong vài chữ: hãy tránh xa chính trị.

Những nhận xét của họ không phải là không đúng với sự thật. Nhưng không may chúng chỉ là những sự thật của một xã hội đã chìm ngập quá lâu trong bóng tối. Những khuyên răn của họ không phải là không có lý.  Nhưng buồn thay chúng chỉ là cái lý của những người đã bị dìm quá lâu trong nếp sống vong thân.

Thế nào là vong thân? Vong thân là khi tự thân đã đánh mất chính mình, đã không thể có được sự tự chủ và tự do, đã không được quyền làm người, đã không được sống như là một con người đúng nghĩa, đã trở thành vô cảm trước những diễn biến chung quanh. Trong môi trường như vậy thì làm sao mà không khổ, làm sao mà kẻ xấu ác không hoành hành, làm sao mà chính trị không dơ bẩn, làm sao mà người hiền không bị bóp chết.

Câu hỏi quan trọng là: ai đã dung dưỡng những thứ xấu ác đó, ai đã để cho bóng tối áp bức tiếp tục phủ trùm lên đất nước, ai đã tiếp tay cho nếp sống vong thân?

Không cần biết ai đã tạo ra những thứ xấu ác, không cần biết ai đã áp đặt những thứ xấu ác, không cần biết ai đã duy trì những thứ xấu ác, có một điều chắc chắn là CHÍNH TÔI ĐÃ DUNG DƯỠNG NHỮNG THỨ XẤU ÁC ĐÓ; CHÍNH TÔI ĐÃ ĐỂ CHO BÓNG TỐI PHỦ TRÙM ĐẤT NƯỚC; CHÍNH TÔI ĐÃ TIẾP TAY CHO NẾP SỐNG VONG THÂN. Vâng, chính là tôi, một con dân của tổ quốc. Chính là tôi, một thành viên của xã hội. Chính là tôi, một tác nhân của môi trường sống.

Tại sao có thể là như vậy?  Rất đơn giản. Tại vì là:

KHI IM LẶNG TRƯỚC NHỮNG ĐIỀU XẤU ÁC, TÔI ĐÃ TRỰC TIẾP ĐỒNG LÕA. KHI CAM CHỊU C ÚI ĐẦU TRƯỚC NHỮNG ĐIỀU XẤU ÁC, TÔI ĐÃ TRỰC TIẾP KHUYẾN KHÍCH.  KHI TRÁNH XA CHỖ DIỄN RA NHỮNG ĐIỀU XẤU ÁC, TÔI ĐÃ TRỰC TIẾP MỞ RỘNG.

Khi mà đại đa số công dân đều chỉ biết im lặng khuất phục trước độc tài chuyên chế, trước tham nhũng lũng đoạn, trước trấn lột cưỡng đoạt, trước dối gian bưng bít, trước gian ngoa xảo quyệt, trước khủng bố bạo hành, trước bất chính bất minh, trước tham lam tráo trở thì thử hỏi làm sao đất nước không đầy dẫy độc tài chuyên chế, tham nhũng lũng đoạn, trấn lột cưỡng đoạt, dối gian bưng bít, gian ngoa xảo quyệt, khủng bố bạo hành, bất chính bất minh, tham lam tráo trở???

Khi mà đại đa số quần chúng đều chỉ biết tránh xa chính trị để mặc tình cho kẻ xấu ác hoành hành thì thử hỏi làm sao nền chính trị của quốc gia không dơ bẩn, không xấu xa, không ác độc, không tà đạo, không chuyên chế, không nằm trong tay của bọn đầu trâu mặt ngựa???

Khi mà mỗi cá nhân không dám xác lập quyền lực của chính mình để tạo ra sức mạnh cộng hưởng giúp xác lập quyền lực của toàn dân thì thử hỏi làm sao một đảng cầm quyền không thao túng, không tự ngồi trên cả luật pháp, không ngang nhiên vơ vét tài nguyên của đất nước, không hút nạo máu mỡ của bá tánh, không khủng bố những tiếng nói đối lập, không đối xử tàn tệ với đồng bào ruột thịt hơn cả những kẻ ngoại bang đô hộ thuộc địa???

Sống trong một quốc gia, dầu muốn hay không muốn thì mỗi người dân trong quốc gia đó cũng đã tự nhiên tham gia vào nền chính trị của đất nước rồi. Chỉ có điều là tham gia để biến quốc gia đó thành một quốc gia lý tưởng, thành một nơi chốn đáng sống cho mỗi người và mọi người bằng cách tích cực xác lập quyền lực của người dân qua hành động cụ thể hay là tham gia để biến quốc gia đó thành địa ngục trần gian bằng cách im lặng, cúi đầu và lánh xa. Phải, tôi không ngại lập lại một lần nữa, “im lặng, cúi đầu, lánh xa” là cách tham gia chính trị để biến một đất nước thành địa ngục.

Mãi cho tới ngày hôm nay tôi vẫn phải nghe từ miệng của những người chung quanh những lời tương tự, cũng với hàm ý “hãy tránh xa chính trị.” Nhiều thế hệ trước đã bị đầu độc với những lời khuyên vô trách nhiệm này. Thế hệ đương đại đang bị “mang niềng kim cô” với cụm chữ đầy răn đe này. Nếu không có sự thay đổi về nhận thức thì có lẽ những thế hệ mai sau cũng sẽ không khá hơn. Tôi thực sự ưu phiền và lo lắng. Với một tấm lòng vì tiền đồ của dân tộc, tôi xin mạn phép được hét to để mọi người, mọi thế hệ –trước kia, ngay bây giờ và mai sau– và mọi giai tầng của đất nước cùng nghe về một sự thật đơn giản:

KHÔNG CÓ MỘT CÔNG DÂN NÀO SỐNG TRÊN ĐẤT NƯỚC CỦA MÌNH CÓ THỂ TRỐN LÁNH THAM GIA CHÍNH TRỊ, CHỈ CÓ SỰ CHỌN LỰA THAM GIA CHÍNH TRỊ BẰNG THÁI ĐỘ NÀO MÀ THÔI.

Những đồng bào của tôi ơi, nhất là những người trẻ trong nay mai sẽ phải kê vai nâng cả một gánh sơn hà, xin đừng để cho kẻ xấu ác tiếp tục khủng bố bằng cụm chữ răn đe “hãy tránh xa chính trị.” Cũng đừng để cho những kẻ ươn hèn vô trách nhiệm nhồi sọ cả một thế hệ rường cột với cụm chữ “hãy tránh xa chính trị” để biến thành kẻ vô trách nhiệm như họ.

Sự nhẫn nhục nào cũng phải có giới hạn. Khi mạng sống của dân đã bị coi thua súc vật, khi tài sản của dân đã bị tước đoạt dễ như lấy đồ trong túi, khi tôn nghiêm của dân đã bị chà đạp quá đáng thì GIỚI HẠN CỦA SỰ NHẪN NHỤC ĐÃ BỊ PHÁ VỠ. Đã đến lúc mọi người cần phải đứng lên cùng nhau tham gia vào nền chính trị của đất nước một cách tích cực và cụ thể để tái lập một cơ chế điều hành đất nước của dân, do dân và cho dân. Đã đến lúc mọi người cần phải đứng lên cùng nhau tham gia vào nền chính trị của đất nước một cách tích cực và cụ thể để tái lập một xã hội văn minh và thiện đức.

Ở thời điểm lịch sử này toàn dân đang có cơ hội để giành lại NHÂN QUYỀN VÀ DÂN QUYỀN đã bị tước đoạt trong nhiều năm qua, hãy tham gia để XÁC LẬP QUYỀN LỰC CỦA NGƯỜI DÂN BẰNG CHÍNH SỨC MẠNH CỦA TOÀN DÂN và nói cho ĐCSVN biết rằng DÂN LÀ CHỦ CỦA ĐẤT NƯỚC NÀY chứ không phải họ.

Hãy tham gia với quyết tâm “KHÔNG KHOAN NHƯỢNG CÁI XẤU ÁC” nhưng KHÔNG ĐỂ BỊ Ô NHIỄM BỞI HẬN THÙ. Hãy tham gia với MỘT TÌNH THƯƠNG LỚN và CHO MỘT ƯỚC MƠ LỚN.

Con đường mà chúng ta cùng đi để XÁC LẬP QUYỀN LỰC CỦA NGƯỜI DÂN BẰNG CHÍNH SỨC MẠNH CỦA TOÀN DÂN chắc chắn là không bằng phẳng, nếu không muốn nói là có thể phải hy sinh cả tánh mạng. Trên con đường đó, chúng ta tuyệt đối không thể sử dụng bạo lực để đối kháng với bạo lực; tuyệt đối không thể để hận thù dẫn chúng ta vào con đường lập lại sai lầm lịch sử mà chính chúng ta đã từng là nạn nhân; tuyệt đối không thể để sự sợ hãi biến chúng ta thành lũ người xấu ác mà chính chúng ta đang lên án họ. Những cái không thể này  không phải là những ý nghĩ “lãng mạn trong đấu tranh” mà là một “tính toán chính lược” sẽ quyết định xác suất thành bại của một cuộc cách mạng, trong đó có cả nỗ lực kiến tạo một quốc gia lý tưởng sau khi quật ngã được chế độ độc tài. Như tôi đã từng nói trong bài Bát Chánh Kiến Cho 1001 Ghonim Của VN: Chỉ có tình thương lớn mới chuyển hóa được tâm thức con người và đưa cá nhân, chủng tộc, nhân loại vượt lên trên mọi dị biệt để hình thành một môi trường sống dung nạp hơn, phồn thịnh hơn, nhân bản hơn và an ninh hơn.

Hãy dùng chính cái sức mạnh chúng ta có được mà họ không có để thắng. Họ có sức mạnh của bạo lực, chúng ta có sức mạnh của biển người phản kháng bất bạo động. Họ độc tài chuyên chế, chúng ta biểu dương dân chủ tự do. Họ khinh bạc nhân dân, chúng ta có lòng thành kính thể hiện qua sự tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Họ tàn nhẫn với dân đen, chúng ta có lòng từ mẫn thể hiện qua sự quan tâm và tương trợ. Họ chà đạp sĩ phu và trí thức, chúng ta tôn trọng lắng nghe dù là tiếng nói đối lập. Họ bán nước cầu vinh, chúng ta sắt son với tiền nhân giữ nước và dựng nước. Họ bịt mắt thiên hạ, chúng ta có thông tin và sự thật. Họ có ĐCSVN, chúng ta có toàn dân trong đó bao gồm cả cảnh sát, quân đội và CNV của bộ máy hành chánh. Họ có được ngọn roi của kẻ cầm quyền, chúng ta có được áo giáp lương tâm và nhiệt tình của toàn nhân loại trên thế giới. Họ sử dụng cương thi XHCN để tiếp tục phủ bóng tối lên đất nước, chúng ta mang quang huy của mặt trời chân lý “sống như con người” chiếu sáng khắp hang cùng ngõ hẹp. Họ chỉ có một kết quả duy nhất là phải đầu hàng trước sức mạnh của toàn dân, chúng ta có một chọn lựa đúng đắn là sẽ ôm vào vòng tay tất cả những người đã qui phục trước sức mạnh của dân. Họ chắc chắn sẽ tan rã, chúng ta chắc chắn sẽ có 1001 Ghonim của Việt Nam bước ra từ dân để hoàn thành ý nguyện của dân thứ ý nguyện đơn giản mà thiêng liêng: MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC SỐNG NHƯ MỘT CON NGƯỜI.

Đã đến lúc mọi người cần phải đứng lên cùng nhau tham gia vào nền chính trị của đất nước một cách tích cực và cụ thể để tái lập một cơ chế điều hành đất nước của dân, do dân và cho dân. Đã đến lúc mọi người cần phải đứng lên cùng nhau tham gia vào nền chính trị của đất nước một cách tích cực và cụ thể để tái lập một xã hội văn minh và thiện đức. Và cho những ai còn e ngại, sao không thử bắt đầu với trách nhiệm nhỏ nhất như tác giả Nguyễn Ngọc Già đã viết trên Dân Luận: “Mỗi lần chúng tôi gặp nhau hàn huyên, tôi và anh ấy luôn nói về tình hình chính trị – xã hội, tôi cũng hay chia sẻ những bài viết của mình với anh ấy. Ban đầu anh ấy ngại ngùng và có vẻ lảng tránh, dần dần (sau cả năm trời) anh ấy bớt thái độ né tránh và quan tâm hơn. Tôi dấn thêm bước nữa, đề nghị anh ấy đọc bài của tôi, anh ấy bảo: “tôi yêu đất nước này, và cũng rất đau đáu với những bất công đầy rẫy trong xã hội, nhưng có lẽ tôi không có lý tưởng như anh”, tôi trả lời: “không, đó không phải là lý tưởng, đó là trách nhiệm của chúng ta. Anh cứ coi như, trách nhiệm của tôi là viết, trách nhiệm của anh là đọc và truyền bá cho những người chung quanh. Hãy bắt đầu từ trách nhiệm nhỏ nhất”, và anh ấy đồng ý.”

Xin đừng tránh xa chính trị!

© Iris Vinh Hayes, Ph.D.

© Đàn Chim Việt

Quan tâm và bàn luận về chính trị – Hãy bắt đầu như một thói quen!

Posted in Opinions | Thẻ: | Leave a Comment »

Thảm họa và nhân cách người Nhật – VN? & Liên hệ “Cách mạng hoa nhài” với trình độ dân chủ của công dân toàn cầu – VN?

Posted by BEAR trên Tháng Ba 20, 2011


Thảm họa và nhân cách người Nhật

Không ai có thể phủ nhận rằng giáo dục đã thay đổi và tạo nên nhân cách người Nhật hiện nay và gián tiếp khiến nước Nhật trở nên hùng cường.

Điều gì làm nên sự khác biệt?

Sự kiện động đất, sóng thần, hiểm họa rò rỉ phóng xạ tại Nhật Bản đã thu hút sự quan tâm, chia sẻ của cả xã hội Việt Nam. Người dân Việt từng ngày, từng giờ theo dõi, cập nhật tin tức thảm họa của nước Nhật, chia sẻ, lo lắng với những gì người Nhật đang phải gánh chịu. Đông đảo chương trình viện trợ, cứu trợ đã và đang được triển khai, ở đủ quy mô dành cho đất nước Nhật.

Và người Việt cũng vô cùng ngưỡng mộ thái độ, phẩm cách cùng văn hóa ứng xử trong cộng đồng của người Nhật trước tai ương.

Điều này không chỉ riêng Việt Nam. Báo chí Trung Quốc cũng ca ngợi thái độ điềm tĩnh và đạo lý của người Nhật trong thảm họa. Đồng thời so sánh chuyện gì sẽ xảy ra nếu thảm họa xảy ra tương tự tại Trung Quốc.

Sự khâm phục của người Việt ta là có cơ sở. Trong thảm họa, tại Nhật đã không có những hiện tượng trộm cắp, cướp bóc và hỗn loạn như ở những nước văn minh phía tây và cực nam bán cầu gần đây. Điều gì làm nên sự khác biệt này?

Câu trả lời là nhân cách người Nhật không có và không cho phép xử sự như vậy. Trong những năm sống ở Nhật Bản, 1 câu nói về nhân cách từ người bạn sinh viên Nhật Bản luôn ám ảnh người viết bài này và luôn được đem ra kiểm chứng trong thực tế. Đó là: “Dù có bị đạp xuống dưới đất thì [người Nhật] cũng không được đánh mất nhân cách của mình.”

Ít người biết rằng cách đây không lâu, chỉ chừng 2 đời người, nước Nhật vẫn còn nhiều những tệ nạn giống như những nước đang phát triển. Ví dụ nạn tiểu tiện, xả rác ra đường. Người Nhật thời đó cũng có quan niệm coi trọng của riêng hơn của chung. Quan chức, nhân viên nhà nước thời đó cũng hách dịch lắm, cho rằng mình thuộc tầng lớp tinh túy mà ban phát ân huệ cho dân chúng. Ngược thời gian lên trên nữa, nếu đọc những cuốn sách như Phúc ông tự truyện hay Khuyến học của Fukuzawa Yukichi, thấy người Nhật cũng đầy rẫy những thói hư tật xấu. Dân chúng ai ai cũng vun vén lợi ích riêng, chính phủ thì tàn bạo, quan chức thì tham lam v.v.

Câu trả lời không thể là đơn giản. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận rằng giáo dục đã thay đổi và tạo nên nhân cách người Nhật hiện nay và gián tiếp khiến nước Nhật trở nên hùng cường. Thật may mắn cho nước Nhật là thời Minh Trị Duy Tân, họ có một Chính phủ thực sự biết lắng nghe dân và vì lợi ích của người dân. Nếu thiếu điều kiện này, sẽ không bao giờ có hình ảnh Nhật Bản hiện tại.

Nhân cách người Nhật được đánh giá là kiên trì, chăm chỉ, hài hòa, kỷ luật, trật tự, trọng danh dự, tôn trọng người khác, thông minh nhưng khiêm tốn. Tường nhà và vách ngăn phòng của người Nhật thường không quét vôi mà dán giấy, trên nền giấy vẽ những bông hoa trang nhã.

Không nói ra nhưng người Nhật ví mình như những bông hoa dán tường, nằm im lặng ở góc xa nhất, nơi ít thu hút sự chú ý của mọi người. Nếu bạn không để ý thì thôi, nếu bạn để ý đến sẽ thấy vẻ đẹp tinh tế của nó. Những câu như: “Là người Nhật, tôi luôn để ý đến sự chi tiết, tỉ mỉ…” là không có trong cách phát ngôn của người Nhật bình thường vì họ không nói về cá nhân mình.

Nhật Bản đang cố gắng khắc phục hậu quả của động đất và sóng thần

Hai câu chuyện về nhân cách

Cũng có người cho rằng người Nhật đã quen với thảm họa nên cách họ đối phó cũng phải hơn những dân tộc khác. Điều này đúng một nửa. Một nửa không đúng là trong những hoàn cảnh khác họ cũng hành xử rất văn hóa. Ví dụ dễ liên tưởng là khi người Nhật ra nước ngoài, họ luôn mang lại sự tôn trọng của dân bản địa vì cách xử sự của mình.

Bởi vì người Nhật đã được giáo dục kỹ để gìn giữ và nâng cao thể diện quốc gia. Nhân nói chuyện này, trong 1 cuốn sách của mình, cụ Vương Hồng Sển cũng kể lại rằng trước chuyến đi Đài Bắc, chính quyền cũ đã gọi cụ lên nhắc nhở về ý thức giữ gìn quốc thể, quốc sỉ khi ra nước ngoài để mà giữ mình, không tổn hại đến uy tín quốc gia.

Thật không chính xác nếu nói toàn bộ người Nhật đều có nhân cách như vậy. Ngược lại, những người già ở Nhật hiện tại phàn nàn rằng lớp trẻ đang đánh mất đi nhiều giá trị tốt đẹp. Giới doanh nhân Nhật cũng bị chỉ trích vì thủ đoạn tinh vi của họ. Nhưng nhân cách của đại số đông người Nhật vẫn luôn được gìn giữ trong nội tại và được thừa nhận với bên ngoài.

Để kết thúc, người viết bài này xin lấy 2 ví dụ về nhân cách của người dân Nhật đối với cụ Phan Bội Châu của ta. Năm 1908 khi phong trào Đông Du bị giải tán, cụ Phan và các đồng chí của mình lâm vào cảnh khốn quẫn. Nguyễn Thái Bạt phải đi xin ăn dọc đường thì gặp ông bác sỹ là Asaba Sakitaro đem về nhà nuôi nấng.

Cùng đường cụ Phan phải viết thư tới ông Asaba – người mà mình không hề quen biết – nhờ Thái Bạt gửi giúp tới ông Asaba. Sáng Thái Bạt đem thư tới mà chiều đã nhận được hồi âm. Ông Asaba tặng số tiền là 1.700 yên (khoảng 5 tỷ đồng hiện tại). Trong thư gửi kèm, Asaba viết những lời rất mộc mạc rằng: “Nhặt nhạnh trong nhà, chỉ còn có thế, sau này nếu cần nữa, cứ viết thư đến sẽ có tiền gửi lại ngay.” Chính nhờ số tiền này mà cụ Phan có phương tiện để nuôi các thanh niên trong phòng trào Đông Du và chi cho các hoạt động khác cho những ngày mình còn tại đây.

Nhân cách người Nhật được đánh giá là kiên trì, chăm chỉ, hài hòa, kỷ luật, trật tự, trọng danh dự, tôn trọng người khác, thông minh nhưng khiêm tốn. Tường nhà và vách ngăn phòng của người Nhật thường không quét vôi mà dán giấy, trên nền giấy vẽ những bông hoa trang nhã. 

Không nói ra nhưng người Nhật ví mình như những bông hoa dán tường, nằm im lặng ở góc xa nhất, nơi ít thu hút sự chú ý của mọi người. Nếu bạn không để ý thì thôi, nếu bạn để ý đến sẽ thấy vẻ đẹp tinh tế của nó.

Năm 1918 sau khi trở lại Nhật, tìm về thăm ân nhân xưa thì cụ Phan hay tin Asaba đã tạ thế. Cụ Phan thấy “tự hổ thẹn là không lấy gì để tạ ơn người tri kỷ” nên đã ngỏ ý cùng người nhà của Asaba xin lập bia tưởng niệm ông. Lúc này, cụ Phan chỉ có 120 yên mà chi phí dựng bia tốn khoảng 200 Yên.

Trót hứa với gia đình ông Asaba, không còn cách nào khác, cụ Phan phải nhờ Lý Trọng Bá đến nói chuyện với ông thôn trưởng về nghĩa cử của ông Asaba năm xưa và trần tình rằng mình không đủ tiền. Ông thôn trưởng nghe xong cảm động vô cùng. Trong buổi họp phụ huynh tại thôn, ông kêu gọi mọi người trong thôn rằng:

“Nhân loại sở dĩ sinh tồn được lâu dài nhờ có lòng tương thân tương ái với nhau. Ông Asaba người thôn ta đem lòng nghĩa hiệp giúp cho một người nước khác đã làm tăng danh giá cho người thôn ta nhiều lắm. Trong thôn ta há chỉ có một mình ông Asaba là người hào hiệp sao? Nay hai ông Phan, Lý xông pha sóng gió muôn trùng, quý trọng người thôn ta, lập bia kỷ niệm ông Asaba.

Hai ông đối với người thôn ta có nghĩa khí chân tình như thế, nếu chúng ta chỉ hững hờ với họ, người trong thôn ta không thấy nhục hay sao? Tôi thiết tưởng chẳng những là nhục cho người thôn ta, mà còn nhục cho tất cả người Nhật nữa.”

Khi mọi người hỏi ý kiến của mình, ông thôn trưởng nói rằng: “Ý tôi là để các ông Phan, Lý mua đá và trả công thợ, còn việc vận tải và xây dựng, thì người trong thôn ta làm giúp như một nghĩa cử. Hy sinh một số tiền thù lao để hoàn thành bia kỷ niệm người nghĩa hiệp cũng là thiên chức của người Nhật chúng ta.”[1]

Hiện nay tấm bia do cụ Phan Bội Châu lập vẫn còn nguyên tại làng Umeda, quận Iwata, tỉnh Shizuoka, Nhật Bản.

Thế giới khâm phục Nhật Bản –> Trông người lại ngẫm đến ta?

Hà Văn Thịnh – Sứ quán vô cảm

Hà Văn Thịnh

Bản tin buổi tối ngày 16.3.2011, VTV1 dành đến hơn 5 phút để ca ngợi nỗ lực của Sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản trong việc “quan tâm” (!) cứu hộ, giúp đỡ người Việt tại Miyagi. VTV1 cứ nói đi nói lại về cái chuyện “có 3 xe bus” đã tham gia di tản – như thể rằng mượn cái “cấu trúc 3” (cấu trúc hoàn chỉnh) để ám chỉ sự hoàn hảo của nghĩa vụ và bổn phận?

Than ôi, nếu ai đã đọc BBC và các trang mạng khác thì biết rõ thực chất ngược lại: Sứ quán Việt Nam tại Nhật coi tính mạng đồng bào mình chẳng khác chi cỏ rác. Bằng chứng rất rõ (theo BBC): Dù có đến 31.000 người Việt đang sinh sống ở Nhật nhưng Sứ quán cũng chỉ làm việc buổi sáng và buổi chiều, mỗi buổi 3 tiếng đồng hồ. Gọi điện không có ai trực máy. Trong khi đó, Philippines thiết lập đến 3 đường dây nóng 24/24.

Quan tâm cái nỗi gì mà hành xử theo cách đó? Nếu liên hệ với các vụ lũ lụt vừa qua tại Việt Nam thì thấy rõ cách thức Chính phủ đối xử với người dân cũng chẳng khác là bao. Hàng trăm người chết ở Quảng Bình, Hà Tĩnh nhưng phải mấy ngày sau mới thấy quan chức cao cấp xuất hiện. Lễ hội Thăng Long không thèm dành dù chỉ nửa giây để mặc niệm hàng trăm đồng bào mình bị chết thảm. Đó là chưa nói hàng ngàn thỉnh cầu, kiến nghị, góp ý… của dân, không hề được các quan chức Chính phủ trả lời dù chỉ nửa câu. Chẳng nói đâu xa, hồi Đại hội X, vì ngây thơ và cả tin, người viết bài này đã viết 13 bức thư tâm huyết gửi về Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo địa chỉ 1A Hùng Vương, Hà Nội bằng đường chuyển phát nhanh, nhưng chẳng hề nhận được bất kỳ phản hồi nào. Không thể nói rằng thư không đến nơi, vì mỗi lá thư như thế tốn 11.000 đồng tiền gửi, nhất định phải đến tận tay, day tận chỗ (sau đó, có 6 thư được đăng trên báo Lao Động, Thanh Niên…).

VTV1 đã “tiết lộ thông tin” vào cuối bản tin, khi cho biết Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gọi điện cho Sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản để thăm hỏi (!). À, thì ra là thế. Dư luận bức xúc quá, quốc tế lên án, Chính phủ chỉ đạo trực tiếp, nên Sứ quán mới biết “thương” người dân! Có đời thuở nào như thế không? Ăn tiền dân, lộc nước thì phải làm hết sức mình phục vụ dân, quý và lo cho dân chứ? Chẳng lẽ các vị cho rằng cứ ăn trên ngồi trốc là được quyền “ban phát” cho những kẻ đã còng lưng mỏi gối làm quần quật để lo cho mình sao? Liên hệ đến chuyện vì lo cho tính mạng của hai nữ nhà báo Mỹ gốc Triều mà cựu Tổng thống B. Clinton đi máy bay tư nhân sang tận Bắc Triều để xin, để đón; mới thấy cái mạng người dân Việt bị chính quyền rẻ rúng đến mức nào. Xót và đau bởi cái nỗi đầy tớ luôn “tư duy” theo lối ban ơn mà quên đi cái bổn phận của kẻ công bộc nhất thiết phải vì dân, vì nước.

Đến bao giờ mới thay đổi cách nhìn, cách hiểu thiển cận và u ám đến thế của các ngài đang công tác trong Sứ quán Việt tại Nhật Bản? Sự vô cảm đến mức tàn nhẫn và lạnh lẽo ấy chẳng lẽ lại là tên gọi đích thực của hai chữ vì dân? Có lẽ cũng chỉ biết nói và thở dài. Thở dài cho đến khi nào liệt cả cổ, đau cả mũi, đỏ cả mắt mới thôi chăng?

Huế, 16.3.2011

Liên hệ “Cách mạng hoa nhài” với trình độ dân chủ của công dân toàn cầu

Ngày 23/2/2011, chungta.com đã đăng nội dung buổi trò chuyện để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về cuộc cách mạng hoa nhài. Từ đó đến nay, nhiều bạn đọc gửi tới chungta.com thêm một số câu hỏi. Để trợ giúp các bạn hiểu thêm về chủ đề phức tạp này, chungta.com mời triết gia, nhà văn Nguyễn Hoàng Đức cùng trò chuyện để giải thích rõ hơn một số điểm trong nhận thức về cuộc “Cách mạng hoa nhài”…

Bùi Quang Minh: Thưa ông, trong buổi nói chuyện lần trước, ông đã cho rằng cuộc cách mạng Hoa Nhài nổ ra tại Tunisia và Ai Cập là do nguyên nhân chính: Nhân dân các nước “tức nước vỡ bờ” vùng lên phế truất chính quyền độc tài “kiểu mới”, bị núp bóng tinh vi dưới mác giả danh “Chế độ Cộng hòa”.

Nhưng các chế độ cai trị hiện nay trên thế giới muôn hình muôn vẻ: quân chủ, quân chủ hình thức, cộng hòa, cộng hòa mạo danh… Vậy ông có thể cho biết đâu là những dấu hiệu cơ bản của chế độ độc tài được không?

Nguyễn Hoàng Đức: Chế độ độc tài giản dị nhất là thể hiện tính cá nhân tiếp theo là gia đình trị là tế bào mở rộng của cá nhân đó. Tiếp theo là dòng họ như các vương gia thuộc những gia đình anh em con cháu của cá nhân đó.

Thời đại mới mở rộng hơn, có khái niệm độc tài tập thể bởi vì chính thức trên lý thuyết và trong hiện thực lịch sử chữ “Tập thể” chỉ mở màn bằng chế độ công xã nguyên thủy khi loài người sống hợp quần. Cho đến đầu thế kỷ 20, với những khái niệm tập thể của Quốc xã Hitle, phát xít của Mussolini và xã hội tụ hội nhóm tập thể… Loài người chỉ có một cái nhìn nhảy vọt từ cá nhân đến toàn dân. Tại sao? Bởi vì cá nhân là ích kỷ, thu vén vào mình, giống người Việt vẫn nghĩ (Ích kỷ, hại tha – Vì mình hại người). Cụ thể trong một câu ca dao “Của mình thì giữ bo bo, của người thì thả cho bò nó xơi”.

Còn toàn dân nghĩa là người khác ở ngoài ngõ, dân tình ở ngoài chợ, mọi người ở ngoài thiên hạ, tạo dựng thành quốc gia và toàn thế giới. Người khác nghĩa là phổ quát, là công lý. Là lý trí của mọi người thực hiện hiến pháp cho môi trường sống của tất cả “cá nhân” mà mình được dự phần. Tại sao chữ “cá nhân” vào ngoặc kép? Vì cá nhân ở đây không là một viên gạch đứng rời rạc nữa, mà là viên gạch đã tham dự vào xây dựng đền thánh. Viên gạch đứng rời rạc chỉ có giá trị vài xu là giá trị hòn đất được nung. Nhưng viên gạch đứng trong lâu đài là viên gạch vĩ đại trong tầm vóc cả hệ thống.

Chế độ độc tài chính là viên gạch đáng giá vài xu nhưng nó đã tự vơ vào mình hệ thống cả lâu đài là dân tộc, là quốc gia và nó tôn vinh mình lên như một chiếc đầu tàu, và nó làm cho mọi người hiểu rằng nó là một đầu tàu (bằng tuyên truyền lừa bịp) đã kéo theo cả một đoàn tàu dài dằng dặc. Than ôi, một viên gạch làm sao biến thành đoàn tàu. Và một viên gạch ở ngoài hệ thống lâu đài làm sao có được “thương hiệu” của lâu đài. Cụ thể, trong trường hợp mới đây của nhà độc tài Caddafi khi đã dùng phi cơ chiến đấu, máy bay phản lực, súng liên thanh bắn thẳng vào nhân dân, nhưng vẫn cảm thấy mình yếu ớt (vì thấy mình là kẻ phi lý chỉ dùng bạo lực của sắt thép để áp đặt sự hợp lý đời sống của toàn dân). Caddafi đã ra điều kiện có thể rút lui đầu hàng nếu không bị xử tội và được đem toàn bộ tài sản của mình đi. Than ôi, bao nhiêu lời tuyên truyền dụ dỗ, đánh bóng của hắn vì nhân dân Libya đã lộ diện trần trụi sự ích kỷ cá nhân. Đây cũng là một minh chứng về bản chất của chế độ độc tài.

Bùi Quang Minh: Như vậy theo ông, tính cá nhân, tính gia đình trị là yếu tố cơ bản nhất để phân biệt?

Nguyễn Hoàng Đức: Vâng, có nghĩa là mọi lời nói hoa mỹ chỉ để che đậy dục vọng ích kỷ của cá nhân, gia đình và đồng bọn. Về việc này người Trung Quốc từ lâu đã thú nhận: Sự ham hố quyền lực của những kẻ độc tài là ở dưới một người ở trên vạn người. Nhưng ở dưới một người vẫn là ở dưới vua, mà tất cả độc tài đều thích làm vua để một mình ngồi trên đầu, trên vai thiên hạ, hưởng lộc tất cả. Lại còn định nghĩa rằng: Thế giới là của mình. Giống như Từ Hy Thái Hậu đã từng định nghĩa Thiên hạ là của nhà Thanh.

Bùi Quang Minh: Yếu tố cơ bản này nhận biết thế nào qua hoạt động của Nhà nước, của thể chế, của xã hội thưa ông?

Nguyễn Hoàng Đức: Rất đơn giản chủ nghĩa ích kỷ được đặt lên đầu tiên. Đỉnh chóp của quyền lực dân tộc – Nhà nước – Quốc gia đều là mình. Giống như vua Luis XVI của Pháp đã từng nói: Pháp luật là ta. Pháp luật là ta thì có nghĩa là pháp luật bị vô hiệu hóa tuyệt đối trở thành ý muốn, xúc cảm sự đồng bóng về ý thích của cá nhân nào đó. Cho nên ở nhiều bộ phim của Trung Quốc vua chúa có thể hạ lệnh giết người chỉ vì nước cờ của mình đi sai hay con dế của mình bị đối phương chọi thua…

Nhưng sự độc tài của cá nhân không dễ phơi lộ và hiển hiện một cách giản dị về dục vọng và quyền lợi như vậy, nó được mở rộng thêm như: độc quyền yêu nước, chỉ có ta là yêu nước còn cách yêu nước của mọi người không phải là yêu nước! Chỉ có ta là yêu nhân dân dù đó là cách đè đầu cưỡi cổ, nhưng ta có hệ thống tuyên truyền để tuyên bố rằng: đó mới là “tình yêu nhân dân chính đáng nhất”. Chưa hết, họ còn độc quyền chân lý, cho rằng chỉ có lời mình nói ra mới là chân lý, còn cái của kẻ khác nói ra là sai lầm và phản lại chân lý! Chưa hết, họ còn độc quyền cả giá trị phổ quát, khi bằng các cửa của ngoại giao và quan hệ với bên ngoài ở tầm vóc quốc gia, họ giữ rịt và loan báo rằng chỉ có cái của ta mới đáng bày tỏ, còn cái của mọi người hay ai đó thì không đáng gì, và nó nên chìm trong bóng tối không cần được biết.

Tóm lại, dễ hiểu hãy định nghĩa độc tài là gì: trước hết độc tài về dục vọng, một mình được hưởng trên đầu thiên hạ. Để làm được điều đó sự kế tiếp sẽ là độc tài về biện minh biện giải, rằng mình, chỉ có mình mới yêu nhân dân và đất nước! Cuối cùng, độc tài cả chân lý là của mình! Và thêm nữa, độc tài luôn cả những ngả đường ngoại giao phổ quát để loan báo với thế giới về tình yêu và chân lý của mình là “đúng đắn”.


Bùi Quang Minh: Theo ông, các nước văn minh như Mỹ, Anh, Pháp, Canada… hiện nay còn có độc tài không?

Nguyễn Hoàng Đức: Độc tài của loài người bao giờ cũng có, và ở các nước đó cũng có luôn. Tại sao? Vì con người còn yêu quyền lực và những gì do quyền lực đem lại thì còn yêu độc tài, bởi vì độc tài luôn ở đỉnh chóp quyền lực không phải chia cho ai cả.

Bùi Quang Minh: Tôi không đồng ý với ông về điểm này. Theo tôi Độc tài (hay thái cực ngược lại với nó chính là Dân chủ) là nói về mức độ đo chất lượng Nhà nước về mặt thể chế và tôn trọng công dân dựa trên quy định và thực thi theo hiến pháp:

– Các công chức Nhà nước nắm giữ quyền lực cao nhất mà không phải do dân bầu ra trực tiếp hay nguồn gốc quyền lực không liên quan đến dân (về bầu lên và phế truất) mà lại qua vòng vèo các tầng lớp trung gian, ma giáo.
– Thiếu tôn trọng công dân, sẵn sàng kiểm soát hành vi, tư tưởng của công dân, quyền và nghĩa vụ của công dân bị tước đoạt, chiếm đoạt tinh vi để phục vụ lợi ích, tham vọng của người nắm giữ quyền lực.

Như vậy, theo tôi Anh, Pháp, Canada… hiện nay không gọi là nhà nước Độc tài. Cơ chế dân chủ ở các quốc gia này sẽ rất sớm loại các gia đình như từng tại vị kiểu Mubarak, Ben Ali, Caddafi… Các nhà độc tài “kiểu mới” này sẽ sớm bị buộc từ chức, các thành viên gia đình, họ tộc hay thậm chí đảng phái của họ cũng bị xét xử vì vi phạm Luật quan chức/ Luật tham nhũng, Luật Đảng phái… Còn ở các nước như Nhật bản, Hàn Quốc, thì nhà độc tài chỉ một chút lạm dụng quyền lực, gây thiệt hại đến / tham ô của công… thì các thành viên chính phủ đều “chân thành” xin lỗi trước “chủ nhân” của mình là Nhân Dân rồi từ chức – cư xử tối thiểu theo đạo đức làm quan.

Điều này chỉ đúng khi các quốc gia văn minh này có cơ chế để nhân dân kiểm soát quyền lực của mình: đó là tam quyền phân lập, tổ chức bầu cử, minh bạch thông tin, tự do báo chí…

Còn không thiết kế tốt các cơ chế đó thì nhà nước gọi là của nhân dân nhưng lại dễ bị vài ba cá nhân đánh cắp, chiếm đoạt toàn bộ quyền lực và đưa đất nước trở về chế độ quân chủ về bản chất và họ đứng trên hay đứng ngoài hiến pháp, sản phẩm của chế độ sau quân chủ – cộng hòa.

Nguyễn Hoàng Đức: Tôi đồng ý, các nước này có cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực của mình. Hy Lạp, Anh, Pháp, Mỹ và vài nước khác nữa… dù họ muốn độc tài nhưng họ đã buộc phải chấp nhận chân lý phổ quát thuộc về nhân dân. Họ buộc phải sống trong cơ chế của hiến pháp và bị hiến pháp kiểm soát.

Pháp luật chỉ có ý nghĩa khi nó ở trên đầu mọi người, kể cả những cá nhân và tổ chức muốn độc tài. Mà những nước kia, họ đã tạo ra cơ chế của hiến pháp ở trên đầu họ. Nghĩa là, dù họ muốn cũng không thể được thỏa mãn để sở hữu một nền độc tài ở trên đầu pháp luật. Nhưng còn nhiều nước khác, nền độc tài của họ từ tâm lý toàn trị đã đổi ngang hiến pháp, họ vẫn nói như Luis XVI, ta là Pháp luật, thậm chí họ còn đi xa hơn ta ở trên đầu pháp luật, thậm chí những quyết định bằng miệng của nhiều cá nhân và tổ chức không chỉ đè bẹp mà còn lĩnh xướng và điều khiển cả nền pháp luật. Thậm chí biến pháp luật thành “án bỏ túi”.

Bùi Quang Minh: Thưa ông, chế độ độc tài “kiểu mới” tại Tunisia tồn tại 25 năm, tại Ai Cập là 30 năm và ở Libya đến nay đã tồn tại 40 năm. Theo ông thì vì sao có nơi chế độ độc tài tồn tại lâu, còn có nơi thì nhanh chóng sụp đổ?

Nguyễn Hoàng Đức: Người Trung Quốc có câu “ Trời không ở mãi với một nhà“, các triều đình của Trung Quốc tồn tại hàng vài trăm năm, như Hạ-Thương-Chu-Hán-Tùy-Đường-Tống-Nguyên-Minh-Thanh… điều này có nghĩa rằng chỉ có khi Trời “quyết định” không còn dùng “nhà” (dòng họ) nào nữa thì Trời mới kết thúc và chuyển đổi sang nhà khác. Nhưng câu này cũng có nghĩa rằng mọi cá nhân, gia đình và dòng họ cai trị đều muốn kéo dài sự cai trị của mình để sống trên đầu trên vai thiên hạ…

Nhưng Trời muốn một công bằng tối thiểu đã chuyển đổi ân lộc triều đình sang các dòng họ khác. Dù gia đình triều đình phong kiến kéo dài mấy trăm năm từ dòng họ này sang dòng họ kia, thì chỉ có tên vua và gia đình các vương gia thay đổi, còn mô thức và cơ chế vẫn vậy. Giống người Việt nói “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Các nước phương Tây theo mô hình Cộng hòa có thay đổi Tổng thống hay Thủ tướng vài năm một nhiệm kỳ, thì cũng vấn là cách kế nhiệm lần lượt như một thói quen.

Nhưng ở Tunisia và Ai Cập vừa mới đây là một sự kiện khác hẳn, nó không phải thay đổi tên Vua, tên Tổng thống mà thay đổi cả một thói quen “hiến pháp”, để rũ bỏ một chế độ “quân chủ biến tướng” thành chế độ cộng hòa thực sự của toàn dân. Điều này vô cùng vĩ đại. Chúng ta nên biết chỉ có lịch sử được manh nha bởi Socrate là người đầu tiên bàn về chế độ Cộng hòa. Sau đó được học trò của ông là Plato viết lại trong cuốn “Cộng hòa” (The Republic)… Mới đây nhiều chuyên gia phương Tây còn cho rằng, người châu Phi da màu “lạc hậu, mọi rợ” không thích hợp với chế độ dân chủ cộng hòa, sinh ra để sống như con cừu dưới chế độ bảo hộ của độc tài… Nhưng cuộc cách mạng ở Tunisia, Ai Cập và Libya đã xảy ra, rõ ràng nó nói lên rằng cuộc cách mạng dân chủ cộng hòa – nghĩa là công dân đòi sống trong chế độ lập hiến (không phải gia đình trị). Là cuộc cách mạng đã biến chuyển từ tầng đáy và tầng hầm một ý thức thượng tầng mà lẽ ra không có ở tầng đáy đã được thực hiện. Những người da màu đem cả những người vợ mảnh mai và đứa con bé nhỏ ra đường như sẵn sàng trở thành vật hiến tế, không phải cho thần thánh Alla nào cả mà cho quyền dân chủ, thân ái, như tà áo bên hông của họ nhưng vẫn hằng xa lạ như một chân trời không bao giờ với tới… Đó là phép lạ của thế giới này chính những chuyên gia da trắng sừng sỏ nhất cũng phải sửng sốt nhất.

Cách mạng Cộng hòa của người da trắng từ lý thuyết đến hiện thực đã xảy ra trước CN 300 từ thời nghị viện Aten-Hy Lạp đến Cộng hòa La Mã và chín muồi có tính hoàn bị châu Âu, nhân lõi của thế giới với Quân chủ lập hiến Anh và cách mạng Cộng hòa Pháp…

Bùi Quang Minh: Tôi nghĩ rằng, vài chục năm độc tài “kiểu mới” tồn tại có nghĩa là trải qua dăm ba thế hệ, mỗi thế hệ chừng 10-15 năm. “Hũ mắm đậy lâu ngày đã bốc mùi”. Sống lâu trong cái hũ mắm đó, nhân dân đi đến trạng thái “Con giun xéo lắm cũng quằn”. Nhưng với cơ chế khéo léo che đậy của độc tài “kiểu mới” vận hành như ông vừa nói thì họ thường dựa trên tính ích kỷ, tính gia đình trị, tính nắm giữ thông tin, chân lý tuyệt đối/ không bao giờ sai và dựa trên tâm lý đám đông để thổi mình lên thành “Thánh sống”. Còn ai chống họ, chỉ trích họ thì sẽ bị họ dùng cơ quan sức mạnh đàn áp, bịt miệng… Cơ chế tội ác đó lúc nào có thể dừng được? Người dân “kém hiểu biết” sẽ tiếp tục bị lừa bịp hay rồi sẽ “kém hiểu biết chính trị hơn nữa” sẽ làm cách mạng? Chờ vài thế hệ bị uốn nắn để thoái hóa, trở thành phế phẩm của các tiến trình chính trị sẽ ra sao? Con người khi đã mất năng lực chính trị tổ chức nên cuộc cách mạng để quay trở lại quá trình chính trị của dân tộc sẽ như thế nào? Ông nói Ai Cập, Tunisia vừa trải qua cuộc cách mạng “đòi sống trong chế độ lập hiến” thì tôi lại thấy tầm vóc cách mạng khác hẳn…

Mới đây theo anh nói và tôi cũng tin là vậy, cách mạng của nền Cộng hòa đã giác ngộ cả những vùng châu Phi: Tunisia, Ai Cập và Libya theo cách chúng ta hiểu cách mạng cả tầng đáy và tầng hầm… Theo cách của nhiều người nghĩ thì cuộc cách mạng tự giác hiến pháp “da màu” đó có thể lây men sang khu vực châu Á (nghĩa là từ da đen sang da vàng), ông nghĩ gì về khả năng này?

Nguyễn Hoàng Đức: Thực ra có một sự khác biệt khá xa về trình độ của da đen và da vàng, của châu Phi và châu Á. Theo nhiều chuyên gia nền văn minh thế giới được mở đầu từ châu Phi bởi vì nơi đó chịu ảnh hưởng mạnh nhất của mặt trời như sa mạc Sahara. Nơi đó đã mọc lên và hiển trị tháp Ai Cập và nền văn minh Ai Cập đầy bí ẩn và vĩ đại. Đa số người châu Âu theo Kito giáo. Kito giáo bằng qua biển Đỏ, biển Chết đã phái sinh một tôn giáo khác có tầm vóc – quy mô ngang ngửa với mình đó là Hồi Giáo. Đa số những nước cách mạng vừa rồi theo Tunisia (98% Hồi giáo), Ai Cập (90% Hồi giáo) và Libya (97% Hồi giáo), nghĩa là những quốc gia có quốc đạo. Quốc gia có quốc đạo nghĩa là những dân tộc được thổi một tâm linh phổ quát, nhắm về những lý tưởng tâm linh siêu việt phổ quát thuộc về thần thánh – đấng ở trên mình và sáng tạo ra mình, điều khiển mình.

Tóm lại, đó là nhữngg người dân vẫn ngước lên chiêm ngưỡng và tuân thủ những giá trị siêu việt cao hơn hẳn thân xác phàm tục của mình. Nhưng ở châu Á thì tình hình khác hẳn, lãnh tụ lý thuyết (nghĩa là cao hơn những lãnh tụ nhiệm kỳ nhiều lần), (lãnh tụ nhiệm kỳ chỉ có nghĩa là thay thế bằng xác thịt và tên gọi), đó là Tôn Trung Sơn. Ông đã nói: Ở Trung Quốc chưa bao giờ có những cuộc cách mạng về tư tưởng, tôn giáo mà chỉ có những cuộc bạo động ghế ngồi, lãnh thổ và đàn bà. Từ tự do dân chủ cộng hòa cũng chưa bao giờ xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc… Ở đó chỉ có từ quân chủ mà thôi (nghĩa là vua có quyền trên từng câu nói phạm húy của dân, có quyền mang dân ra chém nếu nó nói làm mình mất vui).

Về địa chính trị (tức là lý thuyết, chính trị của thế giới sẽ mọc rễ và lan truyền theo thể chất địa lý, nói giản dị dễ hiểu như người Việt bảo “đất nào sinh hoa đấy”. Ở châu Phi bao gồm những sa mạc đầy mặt trời ánh sáng và nắng, người ta di chuyển vô tận – không biên giới lại có tinh thần quốc đạo nên mọi giá trị tinh thần lan truyền và lên men phổ quát rất nhanh, không cá nhân nào đứng ngoài cuộc lên men đó. Chỉ trừ họ chịu nhục là một cái chết không có cộng đồng. Mà điều này với người có đạo là bất khả.

Trong khi đó châu Á được gọi là văn minh lúa nước nông nghiệp lõm bõm nước, bờ thửa chằng chịt lý trí èo uốt yếu ớt cái gọi là tư duy phổ quát gần như chưa hình thành, cái gọi là quốc đạo mới chỉ là bái vật giáo, thần cây đa ma cây gạo đem xôi oản đi cúng mong kiếm được ít tiền thiên vị rót vào túi của mình… Vì ý thức phổ quát tức công lý của người châu Á vẫn được mệnh danh là phương thức sản xuất châu Á (lạc hậu nhất) không thể xếp hạng vào nấc thang tiến bộ văn minh của thế giới. Úm ba lá, chung dung, nước đôi – ba phải , phép vua thua lệ làng tự ngã ích kỷ cho cái tôi của mình là lớn nhất chưa bao giờ tham gia vào cái gọi là dòng chảy của công lý cộng đồng nên, sự lây men của cách mạng tầng đáy ở châu Phi cũng thật khó bén rễ ở châu Á. Tôi nhớ một câu ông Nguyễn Trần Bạt đã so sánh người ta cứ nghĩ rằng người châu Phi là da đen mọi rợ, vậy mà trước ông Ban Ki-Moon họ đã có 2 chủ tịch Liên Hợp Quốc là người châu Phi, còn người châu Á da vàng thì chưa?

Bùi Quang Minh: Như vậy, chúng ta phần đông vẫn thiên về dục vọng nghĩa là ích kỷ, nghĩa là lợi ích cá nhân che mắt tất cả những mục đích xa vời khác và chúng ta khó tiến tới công lý phổ quát – cũng là môi trường hiến pháp cho tất cả mọi người . Và người châu Á chúng ta dễ bị nhà độc tài, thể chế độc tài “kiểu mới” thuần phục hơn người châu Phi…

Nguyễn Hoàng Đức: Cám ơn, bạn rất hiểu ý tôi. Người Việt có câu “Đèn nhà ai, nhà nấy rạng” hoặc “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi“. Người Việt chưa bao giờ có một câu giống như người Mỹ hiện đại nói: Nếu bạn nhìn thấy ai ức hiếp mà bạn không can thiệp, thì chính đến ngày bạn sẽ bị ức hiếp. Người Việt với cách nhìn ích kỷ buông xuôi cho qua chuyện, tưởng sẽ nhẹ thân mà sống nhưng quên mất rằng cuộc sống hiện đại đã định nghĩa rằng “Môi trường sống mới là tất cả”. Ngay cả sự dụ dỗ hay áp chế lành nghề của một nền độc tài “kiểu mới” cũng không bao giờ tạo ra môi trường sống cả.

Bùi Quang Minh: Theo ý anh về môi trường sống của con người là thế nào?

Nguyễn Hoàng Đức: Quá rõ ràng! Chúng ta ăn rau sạch để không đau bụng. Chúng ta có không khí sạch để không mắc bệnh hen suyễn. Một số nhà máy có thể tạo ra mỳ chính cho chúng ta mới đây nhưng lại làm ô nhiễm môi trường thì sự ngọt bát canh không thể đổi lấy sự trong sạch của không khí mà chúng ta hít thở từng giây. Đó là thức ăn và hơi thở. Còn cuộc sống của môi trường xã hội, nghĩa là tương quan giữa người với người chúng ta cần gì? Giữa thủ trưởng và nhân viên, giữa ông chủ và đầy tớ, giữa người nam và người nữ? Giữa người chồng và người vợ? Giữa bố mẹ và con cái.. chúng ta cần gì?

Rõ ràng chúng ta cần một không khí hiến pháp đủ mạnh đủ minh bạch, đủ trong sạch để mọi người được sống trong công bình, bác ái và hạnh phúc. Bạn không thể hạnh phúc khi cả tòa nhà của bạn được tích cóp cả đời xây lên trong 10 năm không bằng túi xách của một quý bà vợ sếp mua nhoáy một cái dăm chục nghìn đô. Xách một lần rồi quăng vào góc. Ai cho bà ta cái điều kiện để làm như vậy? Tài năng ư, đức hạnh của bà ta ư? Không bà ta là người đàn bà rất bình thường, thậm chí kém sắc kém tài, chỉ có điều bà ta được hưởng cơ chế tham nhũng vô tận của ông chồng. Bạn nghĩ rằng nhân dân lại yêu thích một kiểu mẫu hiến pháp tạo ra những con người được ưu tiên là “hoàng hậu mậu dịch“ đó sao? Và có bao nhiêu “hoàng hậu mậu dịch” như thế? Và còn những “ông hoàng” của những bà “hoàng hậu” đó thì sao?

Bùi Quang Minh: Vâng, môi trường sống có thể bất lợi cho đa số nhưng lại có khi lại có lợi cho một nhóm thiểu số. Đáng ngại nhất là văn hóa tức là cơ chế để có môi trường sống tốt hơn cho đại đa số và trong lâu dài, vĩnh cửu đã bị tê liệt, hủy hoại mà thay vào đó là cơ chế phản văn hóa tạo ra môi trường sống tốt chỉ cho thiểu số kiếm lợi, vơ vét cho ngắn hạn chỉ dăm ba đời người. Cái cơ chế phản văn hóa còn đưa thêm vào những lý do biện hộ cho tội ác gây cho bất kỳ cá nhân nào, dễ dàng quy kết đàn áp cá nhân, nhóm cá nhân… theo những lỗi vô tội vạ, đổ thừa, quy chụp chính trị.

Vậy thì theo ông sự tồn tại của một nhà độc tài, một chế độ độc tài hàng vài chục năm như ở Tunisia, Ai Cập, Libya… liệu có phải là nghịch lý của dân tộc, của thời đại không?

Nguyễn Hoàng Đức: Tôi nhớ một câu nói rất nổi tiếng của văn hào Dostoievski (1821 – 1881) – thủ lĩnh tinh thần của dân tộc Nga – một nước Nga lạc hậu bậc nhất của châu Âu cứ nhi nhoe đòi tiến lên công xã nguyên thủy tuyệt đối, ông đã buông một câu: “Nước Nga là một cú chơi xỏ của Thượng Đế”. Có những dân tộc được làm thiên sứ! Có những dân tộc được làm tư tế! Có những dân tộc được làm người lĩnh xướng cho dàn đồng cao! Có những dân tộc chỉ là dao thớt để băm chặt dâng lên bàn tiệc! Có những dân tộc như chỉ là trò chơi xỏ của Thượng Đế.

Dân tộc nào lạc hậu thì chỉ là dao thớt và “chơi xỏ” của càn khôn. Còn những dân tộc khôn ngoan phải tự giác nhận ra sứ mệnh cao quý của mình. Chính người châu Phi đã làm được điều đó ở đầu thiên niên kỷ thứ 3 này. Một sứ mệnh chưa từng thấy trong lịch sử, tôi chắc chắn như vậy và loài người chắc không thể có kết luận nào khác. Còn những dân tộc lạc hậu và chậm tiến khác liệu có cam lòng để trở thành “dao thớt” của Chúa mãi hay không? Câu hỏi đó được trả lời cách nào đó là tùy vào trình độ phản tỉnh lương tri của mỗi cá nhân cũng như của dân tộc bao trùm lên nó.

Bùi Quang Minh: Xin cảm ơn ông về buổi trao đổi thú vị hôm nay.

Nguồn: Chungta.com
Số lượt đọc:  983 –  Cập nhật lần cuối:  18/03/2011 07:12:47 AM
Trao đổi/Nhận xét Tổng số:  5
Học hỏi tri thức cũng có dăm bảy kiểu, nhưng không theo kiểu ông nguyen van hoang
Việt Bit  – Email:  minhvietbit@yahoo.com (16/03/2011 03:59:54 PM)

Như vậy là các ông Nguyễn Công Tâm, nguyen van hoang đều nhất trí là cần phải học hỏi, coi tri thức là quan trọng cho dù nguồn gốc của kiến thức là ở phương Tây, hay phương Đông. Thế cũng đúng với tôn chỉ của website này.

1 ông thì muốn học để ưu tiên có ổn định trong ngắn hạn, còn 1 ông thì muốn học để thay đổi ngay cho sự ổn định trong dài hạn nên mỗi ông có cách tìm ra cái hay/ cái dở để sử dụng. Theo tôi, trong dài hạn mới cần tầm vóc của tri thức. Ví dụ, hàng triệu người lo trong ngắn hạn, hàng ngày không bị bất cứ thằng móc túi nào móc túi mình (trái luật pháp); hàng triệu người ấy vẫn sẽ không tránh khỏi, trong hàng chục năm trời bị dăm ba thằng quan chức, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng,… ‘móc túi’ Nhà nước (làm đúng quyền “luật pháp” trao) để rồi công nợ chung của “hàng triệu người ấy” sau hàng chục năm là hàng chục tỷ USD… Ổn định ngắn hạn là tránh thằng móc túi nào múc túi mình và ổn định dài hạn là tránh bị quan chức tham nhũng móc phần túi của mình gửi ở Nhà nước? Tầm vóc trí tuệ nào học hỏi được sẽ xứng với kết cục đó mà thôi!

Còn tôi thấy thêm 1 điều: ông nguyen van hoang khi viết comment có ý chê tri thức phương Tây khi dùng tiêu đề “Dân chủ kiểu Mỹ, Pháp có gì mà khen?”, hoặc ông không tìm ra gì là tốt, chỉ thấy họ toàn cái xấu mà ở môi trường ổn định nhà ông đã khắc phục, đã ưu việt hơn nhiều, chẳng bao giờ lặp lại như ở Mỹ, Pháp… Thêm nữa, cách ông hỏi thực ông Đức, ông Minh – tác giả bài viết có tính tri thức về chuyện có cầm súng không khi có chiến tranh chứng tỏ ông nguyen van hoang không quan tâm đến thực chất tri thức được cung cấp mà quan tâm hơn đến con người.

Kiểu ngụy biện của ông nguyen van hoang rất nguy hiểm khi cãi nhau không được thì tìm điểm yếu trên con người tham gia để hạ bệ cái tri thức người ta nói ra! Giống như đang tranh luận về tính đúng đắn bất diệt của triết học Marx thì lại cãi Marx già rồi, Marx túng thiếu thì nói làm gì đến triết học của lão ta! Ôi, căn bệnh của người lười học ở phương Đông là thế!

Chúng ta học hỏi nhưng phải biết phân biệt tốt/ xấu
nguyen van hoang  – Email:  long_5aka@yahoo.com (14/03/2011 08:10:33 AM)

Tôi đồng ý với ông Tâm là chúng ta cần học hỏi các nước tiến bộ trên thế giới. Nhưng không phải cách học hỏi một cách máy móc.

Thực sự tình hình mỗi nước mỗi khác, không thể áp đặt được, chúng ta có thể học tập phương Tây về khoa học, kỹ thuật, kinh tế… nhưng về văn hoá, chính trị… thì còn phải phân tích kỹ lưỡng, đặc thù văn hoá và con người Việt Nam. không thể áp dụng máy móc mô hình dân chủ Phương tây như Hy Lạp, Mỹ, Pháp đưa vào Việt Nam, Phương Tây vẫn chưa hoàn toàn là cả thế giới.

Tôi chỉ muốn ông Tâm chú ý điều đó. Ngay cả xã hội Mỹ, Pháp, Việt Nam hiện nay cũng vẫn còn nhiều mâu thuẫn sâu sắc phải giải quyết. Còn việc tôi nói về chiến tranh chống Mỹ, Pháp là việc của quá khứ, chúng ta nhìn lại quá khứ để có những bài học bổ ích cho hiện tại.

Như hầu hết những người Việt Nam khác, tôi mong muốn được sống yên bình, ổn định. Ổn định chính trị để phát triển kinh tế là một điều kiện tất yếu để quốc gia phát triển.

Mong rằng mỗi người chúng ta đóng góp những ý kiến, hành động quý báu để đất nước ngày càng ổn định chính trị và phồn vinh về kinh tế.

Khen dân chủ vì “Không có dân chủ kiểu Mỹ và Pháp, chỉ có dân chủ của nhân loại”…
Nguyễn Công Tâm  – Email:  congtam@businessman360.com (12/03/2011 10:46:33 PM)

Thánh Gandhi khi tổ chức đấu tranh bất bạo động để chống lại đế quốc Anh có nói: Chúng ta chống lại việc người Anh đô hộ nhưng không chống lại thể chế Anh, vì thể chế của họ tiến bộ hơn của chúng ta.

Trong tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu đã dẫn lời phương ngôn của Pháp và Mỹ, như vậy cũng chứng tỏ Chủ tịch chỉ huy chống lại sự xâm lăng của Pháp và Mỹ, nhưng không chống lại tư tưởng tiến bộ của họ.

Giờ có rất nhiều lãnh đạo cao cấp Việt Nam ta muốn chống lại sự áp đặt của Mỹ nhưng lại bỏ nhiều tiền để gửi con đi học ở Mỹ (cả Trung Quốc cũng vậy), như thế chứng tỏ người ta có thể chống Mỹ nhưng vẫn thừa nhận sự ưu việt của nền giáo dục Mỹ.

Cách nghĩ của a. Nguyen Van Hoang là cách nghĩ hạ tầng của một người lính. Trong khi những viên tướng và ban tham mưu tìm cách đánh ngoại giao để chinh phục đối phương thì anh Hoang chỉ có cách nghĩ trực tiếp về việc cầm súng.

Anh nên tự biết trình độ của mình, ở tầm của người lính thì đừng nên bàn những chuyện đại sự của cấp tướng. Anh có thể nhầm lẫn giữa đánh Pháp và Mỹ với nền dân chủ, thì chẳng khác gì trong quân sự người ta cứ công thành là xong. Trong khi đó binh pháp cho rằng “Giữ thành còn khó hơn công thành”. Sau khi có thành rồi người ta phải tìm cách xây dựng phát triển thành, việc đó là của tay cuốc tay cày, nhưng anh Hoang vẫn cứ muốn cầm súng đứng tại chỗ hát bài ca chiến thắng.

Một dân tộc có bản lĩnh thực sự, thì phải biết chiến tranh trong thời chiến, và phải biết xây dựng trong hòa bình. Nếu không làm được hai điều kế tục khác hẳn đó, thì chiến thắng có ý nghĩa gì?

Dân chủ kiểu Mỹ, Pháp có gì mà khen???
nguyen van hoang  – Email:  long_5aka@yahoo.com (11/03/2011 04:45:25 PM)

Các ông Đức và Minh bàn về dân chủ, quyền của dân, nhưng tôi hỏi thực nếu đất nước bị xâm lăng như khi đế quốc Mỹ và thực dân Pháp vào cướp nước ta các ông có dám cầm súng theo cách mạng để đấu tranh giải phóng dân tộc không.

Các ông khen dân chủ ở Pháp, Mỹ, vây tôi mạn phép hỏi hai ông, Mỹ và Pháp đàn áp giết hại nhân dân Việt Nam là dân chủ kiểu gì???

Thế 1 tổ chức giữ quyền cầm quyền 1 nước có gọi là độc tài không?
Do Nghi  – Email:  donghimail@yahoo.com (10/03/2011 03:26:59 PM)

Cám ơn ông Minh và ông Đức về bài (Liên hệ “Cách mạng hoa nhài”….).

Với tầm hiểu biết hạn hẹp của người dân muốn hỏi hai ông kĩ hơn:

Ở 1 nước có 1 tổ chức (ví dụ Đảng dân chủ Ai Cập) đi lên từ sức mạnh của nhân dân, rồi cầm quyền vĩnh viễn không nhường tổ chức khác, cai trị theo hiến pháp của họ (gọi là hiến pháp của đất nước, ví dụ Hiến pháp Libya). Lợi ích chính trị của tổ chức này có lợi nghiêng hẳn về ~ người cầm đầu trong tổ chức đó chứ không phục vụ đông đảo nhân dân (ví dụ Ngài Caddafi, ngài Ben Ali, ngài Mubarak). Do vậy nước đó tụt hậu so với pt của nhân loại. Vậy chế độ đó có gọi là độc tài không?

Hay là do khó quy kết trách nhiệm cho cá nhân, cho tổ chức thì khó gọi được là độc tài?

Việt Nam ‘chi bạo’ nhất thế giới

Người Việt Nam tiêu xài lạc quan nhất thế giới”, đó là tựa một bài viết đăng trên báo Saigon Tiếp Thị nói rằng ở Việt Nam, làm ra một đồng thì xài tới 2, 3, 4 đồng. Vì sao người Việt được đánh giá và xếp hạng cao như vậy?

AFP

Cửa hàng bán các loại xe hơi hạng sang

Ông Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, năm nay người dân Việt mình ăn Tết Tân Mão lớn chưa từng thấy. Bên cạnh đó, tổ chức cung cấp thẻ tín dụng toàn cầu Master Card Worlwide cũng phổ biến kết quả khảo sát cho thấy qua thăm dò ý kiến trên 10 ngàn người thuộc 24 quốc gia, vùng lãnh thổ thuộc Châu Á, Thái Bình Dương, Châu Phi, khu vực Trung Đông thì nói về ăn chơi, giải trí, người Việt dẫn đầu so với các nước Hàn Quốc, Hồng Kông, Australia.

Mặt khác, người Việt khi sang thăm người thân tại các nước Hoa Kỳ, Australia, Singapore đều nhận thức rõ về tinh thần tiết kiệm của dân chúng các quốc gia được xem là sung túc ấy.

Vẫn căn cứ vào những số liệu thống kê thì sức mua, tiêu xài tiền của người Việt Nam tăng rất nhanh, mỗi năm tăng tới 20% tương đương với 53 tỷ đô la, thị trường bán lẻ đứng thứ tư trên thế giới chỉ sau các nước được xem là “cường quốc” có đông dân, gồm có Ấn Độ, Nga và Trung Quốc. Cũng có lẽ vì bản xếp hạng này mà người Việt Nam được đánh giá là “tiêu xài lạc quan nhất thế giới”.

Lời cảnh tỉnh, mỉa mai

thuong-xa-tax-250.jpg
Thương xá TAX. RFA photo.

Góp ý về sự đánh giá này, Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam nhấn mạnh:
“Nói như vậy có lẽ đó là một lời phê phán, cảnh tỉnh thì đúng hơn; họ nói đúng ‘chi bạo’ hay nói cách khác là nhiều khi không lượng được sức mình, trong nhiều chuyện lắm.

Cái cách của mình không phù hợp với thực lực mà mình có, Việt Nam hiện nay là một đất nước đứng thứ 13 về dân số, trên thế giới. Ở một nước mà thiên nhiên không lấy gì làm ưu đãi cho lắm, nếu muốn phát triển thì có lẽ phải học như người Nhật, dạy cho con em họ biết rằng, Nhật là một nước nghèo về tài nguyên, khoáng sản, vì vậy chỉ có một cách là phải cắn răng lại để mà làm việc, lao động, có như vậy nước họ mới phát triển được.

Trong lúc đó, Việt Nam, dân số rất đông, trình độ kinh tế rất thấp so với các nước khác trong khu vực và so với thế giới, muốn phát triển, người Việt Nam phải cần cù, biết cách vừa làm, vừa dành dụm để tạo nên cơ nghiệp.”

Nói như vậy có lẽ đó là một lời phê phán, cảnh tỉnh thì đúng hơn.

GS Tương Lai

Giáo sư Tương Lai tự đặt cho mình câu hỏi : “Ai chi bạo…”?

Và chính ông cũng tự đi tìm cho mình lời giải đáp:

“Nói cho cùng, không phải tất cả mọi người đều ‘vung tay quá trán như thế đâu’, nhưng nếu nhìn một cách thật nghiêm khắc thì phải nói đây là một nhược điểm của riêng mình, vì vậy khi người ta nhận định về mình như thế, là người ta chê và sự chê bai đó là đúng, người Việt cần phải thấy rõ cái nhược điểm ấy của mình, để biết cách tằn tiện, biết lượng sức để mà đưa đất nước mình đi lên. Trong chuyện đó, phải giáo dục cho con em mình ngay từ khi còn bé, ở ghế nhà trường cần phải có ý thức đó, nếu không làm được như vậy, thì Việt Nam khó mà đuổi kịp được với thế giới.”

Kẻ ăn không hết, người lần không ra

Người bán hàng rong ngồi an trưa bên cạnh một cửa hàng bán mỹ phẩm sang trọng tại Sài Gòn. AFP Photo.
Người bán hàng rong ngồi an trưa bên cạnh một cửa hàng bán mỹ phẩm sang trọng tại Sài Gòn. AFP Photo.

Chi xài quá mức vốn liếng mà mình làm ra được, dễ đưa tới những tệ đoan xã hội, ăn xài hoang phí, ông Quý một người dân sinh trưởng ở Bồng Sơn, Miền Trung VN thấy rõ điều đó, khi đón nhận tin “người Việt tiêu xài lạc quan”:
“Câu này có ý mỉa mai, bản chất của người Việt Nam là ăn tiêu dè xẻn, dùng sức lao động và mồ hôi để làm ra tiền, như người ta thường nói ‘khéo ăn thì no, khéo co thì ấm’.

Phải dành dụm, tiết kiệm, để lo xây dựng gia đình, lo cho con cái ăn học. Tuy nhiên trong thời buổi bây giờ, có nhiều giới chức kiếm được tiền rất dễ dàng, hoặc vì có chỗ ngồi rất tốt, nhận được tiền hối lộ, lo lót, họ tiêu xài tiền như ‘ném qua cửa sổ’. Thứ hai là có những người ‘móc ngoặc’ công việc làm ăn suông sẻ, kiếm được rất nhiều tiền nên ăn chơi, một đêm có thể tiêu xài hai, ba chục triệu đồng tiền Việt Nam.”

Theo ông, có những địa phương trên đất nước Việt Nam, dù làm việc cật lực, người dân cũng chưa đủ ăn:

“Ở miền quê, nhất là vùng Bồng Sơn của chúng tôi, có những người suốt đời còng lưng, làm việc trên những thửa ruộng, trên nắng, dưới nóng, mà một ngày không có đủ hai bữa cơm cho no bụng, vậy mà ở thành phố con ông, cháu cha, những người móc ngoặc đã vung tiền, tiêu xài.

“Ở miền quê, nhất là vùng Bồng Sơn của chúng tôi, có những người suốt đời còng lưng, làm việc trên những thửa ruộng, trên nắng, dưới nóng, mà một ngày không có đủ hai bữa cơm cho no bụng.

Ông Quý

Nếu là người hiểu biết, họ cho đó là một câu chế nhạo, bởi vì đồng tiền kiếm được không do mồ hôi, nước mắt, là một . Thứ hai là họ không tin ở ngày mai, bây giờ có tiền thì cứ xài, không biết rằng ngày mai, họ còn ngồi ở chỗ đó nữa hay không, còn xài được tiền hay không, xài được ngày nào hay ngày ấy.”

Theo báo chí nước ngoài thì hình như người Việt Nam đang sống theo kiểu cách ‘ném tiền qua cửa sổ’, vì dư luận vẫn thường nghe kể lại rằng, có bao cây cầu xây mà không ai đi qua, bến cảng dựng lên mà không tàu thuyền nào cập vào, sân bay thẳng tấp không máy bay nào tới đáp, hàng lô biệt thự, cao ốc vô chủ ở Hà Nội và Saigon bỏ trống lâu nay.

Còn người dân ‘thấp cổ bé họng’ thì thường nói ‘có những món hàng mà người mua không bao giờ dám đụng tới’ và ‘có những thứ hàng cao cấp bạc triệu mà người dùng không bao giờ phải mua sắm cả’.

Theo dòng thời sự:

Posted in Japan, Question | Leave a Comment »

Thế giới khâm phục Nhật Bản –> Trông người lại ngẫm đến ta?

Posted by BEAR trên Tháng Ba 15, 2011

Thế giới khâm phục Nhật Bản

Bất chấp những cảnh tượng kinh hoàng do động đất và sóng thần, nước Nhật sẽ bước ra khỏi cuộc khủng hoảng với uy tín lớn mạnh hơn bởi sự kiên cường của người Nhật đang được cả thế giới ca ngợi.
> Người Nhật kiên cường
> Xét lại với điện hạt nhân
> Nóng chảy hạt nhân là gì?

Truyền hình và báo chí khắp thế giới ngày ngày đưa hình ảnh những con sóng khổng lồ cuốn phăng nhà cửa và ô tô tàu thủy như những món đồ chơi nhỏ, hình ảnh những người sống sót thất thần trước cảnh hoang tàn.

Loạt tin và phóng sự cũng cho thấy một nước Nhật Bản khác – người Nhật bình tĩnh và kiên trì đi tìm những người thân hay trật tự chờ đợi đến lượt được nhận nhu yếu phẩm. Không hề có dấu hiệu cướp bóc hay bạo lực.

Một người đàn ông Nhật tìm thông tin về người thân ở tòa thị chính thành phố Natori, tỉnh Miyagi. Ảnh: AFP.

Vô số blog tiếng Anh trên thế giới mô tả những người Nhật là “khắc kỷ”, và tự đặt câu hỏi nếu thảm họa như vậy xảy ra ở các nước phương Tây thì không hiểu mức độ thảm cảnh sẽ lên đến đâu.

Giáo sư đại học Havard Joseph Nye nhận xét rằng thảm họa này có thể khiến “quyền lực mềm” của nước Nhật tăng lên. Quyền lực mềm là thuật ngữ ông dùng để mô tả cách mà các quốc gia đạt được mục tiêu của mình bằng cách khiến nước khác ngưỡng mộ.

“Cho dù thảm họa này là to lớn, nó cho thấy một số nét tính cánh tuyệt vời của người Nhật, và sẽ giúp cho quyền lực mềm của họ”, Nye viết.

“Họ cho thấy một xã hội ổn định, kỷ luật tốt và được chuẩn bị sẵn sàng cho những thảm họa, một quốc gia hiện đại. Họ đối phó với thảm họa một cách bình tĩnh và trật tự”, ông bình luận.

Nhật Bản, một quốc gia với nền hòa bình được quy định trong hiến pháp, vốn từ lâu sử dụng viện trợ như một trong các chính sách đối ngoại quan trọng, nhiều khả năng sẽ phải xem xét lại các ngân khoản một khi họ bước vào giai đoạn tái tiết sau động đất, sóng thần.

Một em bé Nhật đang được soi để phát hiện xem có bị phơi nhiễm phóng xạ, sau các vụ nổ ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima I, hay không. Ảnh: AP.
Một em bé Nhật đang được soi để phát hiện xem có bị phơi nhiễm phóng xạ, sau các vụ nổ ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima I, hay không. Ảnh: AP.

Mỗi khi có thảm họa thiên nhiên, hầu như quốc gia nào cũng đều nhận được sự cảm thông và viện trợ từ cộng đồng quốc tế, nhưng hiếm khi nào được sự khâm phục và tăng uy tín như Nhật Bản.

Một số chuyên gia nhận định rằng kinh tế Nhật có thể thoát khỏi giai đoạn trì trệ sau thiên tai. “Còn quá sớm để đưa ra bất kỳ dự đoán nào. Nhưng tôi nghĩ, cho đến nay, có vẻ như người Nhật đã thể hiện sự kiên cường trong khủng hoảng. Tôi cho là sẽ có nhiều điều để nói trong những ngày tới, tuần tới, về Nhật Bản”, Nicholas Szechenyi, phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Mỹ, nhận xét.

Báo chí thế giới cũng tràn ngập những lời ca ngợi dành cho người Nhật và công tác chuẩn bị đối phó thiên tai của nước này. Tờ National Post của Canada bình luận rằng tầm nhìn xa của Nhật Bản đã cứu “hàng chục nghìn mạng sống”.

“Không như Haiti (2010), Pakistan (2005) hay Tứ Xuyên (2008), số người chết không lên cao vô lý như ở những nơi mà các tòa nhà to tướng đổ sập ngay lập tức lên đầu những người trú ngụ bên trong”, báo này viết.

Tờ The Wall Street Journal trong phần xã luận viết: “Sau trận động đất kinh hoàng 300 năm mới có một lần, người Nhật đã giữ được bình tĩnh giữa tình trạng loạn lạc, thực hiện nhiệm vụ cứu hộ cứu nạn khổng lồ, và nhận được sự ngưỡng mộ của cả thế giới”.

Xem thêm: Độc giả VnExpress tỏ lòng khâm phục người Nhật Bản.

Người Nhật kiên cường trong thảm họa

Giữa cảnh hoang tàn và nguy hiểm rình rập, binh sĩ và người tình nguyện Nhật Bản vẫn đi tìm kiếm những người sống sót. Dù thiếu thốn, dân ở nơi bị ảnh hưởng nặng nề bởi sóng thần vẫn kiên nhẫn xếp hàng mua lương thực.
> Giải pháp ngăn chặn thảm họa hạt nhân
> Thoát chết kỳ diệu trong sóng thần
> Việt Nam đo mức độ phóng xạ

Người phụ nữ này được cứu sau khi động đất xảy ra ở đông bắc Nhật Bản. Ảnh chụp tại thành phố Natori, tỉnh Miyagi. Ảnh: AP
Người phụ nữ này được cứu sau khi động đất xảy ra ở đông bắc Nhật Bản. Ảnh chụp tại thành phố Natori, tỉnh Miyagi. Ảnh: AP
Binh sĩ Nhật Bản trèo qua tường rào giữa đống đổ nát đi tìm người sống sót ở thành phố Kesennnuma, tỉnh Miyagy.
Một em bé được cứu ra khỏi một tòa nhà cao tầng ở thành phố Kesennuma, đông bắc Nhật. Ảnh: AP.
Một em bé được cứu ra khỏi một tòa nhà cao tầng ở thành phố Kesennuma, đông bắc Nhật. Ảnh: AP.
Nhân viên cứu hộ đưa những người sống sót về nơi chữa trị, sau động đất và sóng thần ở tỉnh Miyagy. Ảnh: AP
Nhân viên cứu hộ đưa những người sống sót về nơi chữa trị, sau động đất và sóng thần ở tỉnh Miyagy. Ảnh: AP
Một lính cứu hỏa tình nguyện đi xem xét một ngôi nhà sập chìm trong nước của sóng thần, tại tỉnh Iwate. Ảnh: AP.
Một lính cứu hỏa tình nguyện đi xem xét một ngôi nhà sập chìm trong nước của sóng thần, tại tỉnh Iwate. Trên tờ Ashahi Shimbun hôm nay, nhiều người viết thư bày tỏ lòng cảm kích trước sự giúp đỡ của những người không quen biết. Một phụ nữ ở Tokyo kể chuyện cô được người lạ mời uống trà hoặc giúp sạc pin điện thoại, trên hành trình đi bộ 6 tiếng về nhà hôm động đất. Ảnh: AP.
Những người sống sót trong một ngôi trường ở thành phố Đenai, tỉnh Miyagy, lần lượt đi tới một trung tâm cứu hộ an toàn. Ảnh: AP
Những người sống sót trong một ngôi trường ở thành phố Sendai, tỉnh Miyagy, lần lượt đi tới một trung tâm cứu hộ an toàn. Ảnh: AP
Một người Nhật được trực thăng của lực lượng phòng vệ cứu thoát khỏi đống đổ nát sau khi sóng thần ập vào ở tỉnh Iwate. Ảnh: AP
Một người Nhật được trực thăng của lực lượng phòng vệ cứu thoát khỏi đống đổ nát sau khi sóng thần ập vào ở tỉnh Iwate. Ảnh: AP
Người già ở tỉnh Fukushima được các binh sĩ sơ tán hôm qua, do lo ngại nguy cơ phóng xạ. Ảnh: AFP.
Người già ở tỉnh Fukushima được các binh sĩ sơ tán hôm qua, do lo ngại nguy cơ phóng xạ. Ảnh: AFP.
Một phụ nữ Nhật ôm đứa cháu gái trong lòng tại một trung tâm cứu nạn ở thành phố Natorri, Fukushima. Ảnh: AFP
Một phụ nữ Nhật ôm đứa cháu gái trong lòng tại một trung tâm cứu nạn ở thành phố Natorri, Fukushima. Ảnh: AFP
Một cụ bà giữa đống đổ nát ở Fukushima. Ảnh: AFP
Một cụ bà chống gậy đi giữa đống đổ nát ở Fukushima. Ảnh: AFP
Một cụ khác kêu to tên người thân, hy vọng thấy họ sống sót, ba ngày sau thảm họa, Fukusshima 14/. Ảnh: AFP
Một cụ khác kêu to tên người thân, hy vọng thấy họ sống sót, ba ngày sau thảm họa, Fukushima 14/. Ảnh: AFP
Người sống sót ở thành phố Sendai xếp hàng mua thực phẩm, ba ngày sau thảm họa. Ảnh: AFP.
Người sống sót ở thành phố Sendai xếp hàng mua thực phẩm, ba ngày sau thảm họa. Tại Tokyo, các mặt hàng thực phẩm khô trở nên hiếm hơn do người dân mua dự phòng, nhưng không hề có chuyện tăng giá đột biến. Ảnh: AFP.
Một gia đình trong trại cứu hộ ở thành phố bị tàn phá Sendai. Ảnh: AFP.
Một gia đình trong trại cứu hộ ở thành phố bị tàn phá Sendai. Ảnh: AFP.

 

Cuộc chiến trong trật tự của các bà nội trợ Nhật sau động đất

Kể từ chiều ngày 12/3 đa phần các siêu thị và tiệm bán đồ tiện lợi đã bắt đầu lần lượt đóng cửa. Nếu như ở Việt Nam mỗi khi có tình huống gì đấy dẫn tới khan hiếm hàng hóa thì mọi thứ đều bị đẩy giá lên chóng mặt thì ở Nhật hoàn toàn không!

Mọi thứ vẫn nguyên giá cho đến giờ phút này thậm chí là con rẻ hơn! Các siêu thị lớn đều nhanh chóng hạ giá gần như toàn bộ mặt hàng xuống 20% để kích thích người mua! Thực sự các siêu thị càng lớn càng sợ dư chấn động đất bởi họ có quá nhiều hàng hóa bày trên kệ trong khi lực lượng nhân viên quá mỏng để có thể bảo vệ được khối lượng hàng hóa đồ sộ như thế. Và họ đã chọn một giải pháp khôn ngoan là hạ giá để kích thích mạnh người mua.

Đấy là về người bán còn cuộc chiến thật sự nằm ở người mua. Và không ai khác đó là các bà nội trợ Nhật. Chủ động và Chớp nhoáng là những từ chính xác cho họ vào thời điểm này.

Dòng người xếp hàng lấy nước trong một sân trường học ngày 13/3.

Ngay khi những đợt dư chấn đầu qua đi họ đã bắt đầu lao ra siêu thị và mua tất cả những gì có thể để tích trữ! Và cuộc chiến này người thắng là những người nhanh nhạy nắm bắt được tình hình để quyết định thời điểm mua sớm nhất.

Cho tới chiều ngày 12/3 các siêu thị lớn đều đã sạch tanh lương thực như thịt cá và đặc biệt là bánh mỳ, thậm chí một khoanh cũng không còn. Còn các tiệm tạp hóa cũng bắt đầu đóng cửa vì không còn mấy để mà bán. Nếu có người nghĩ rằng cảnh mua bán ở siêu thị sẽ là một mớ hỗn loạn và tranh cướp tựa như kiểu hội đền Trần của Việt Nam thì họ đã hoàn toàn nhầm.

Mọi thứ đều diễn ra một cách rất trật tự không la ó không tranh cướp, các quấy thu ngân hoạt động không ngừng mà vẫn có cả hàng người vẫn đang xếp hàng chờ. Cũng có khá nhiều người nhìn gian hàng lương thực trống trơn chán nản bỏ về.

Đó thực sự là một cuộc chiến hoàn toàn trong trật tự, một cuộc chiến mang đậm chất Nhật của các bà nội trợ xứ mặt trời mọc.

Nguyen Bui (Ebina, Kanagawa)

Cuộc chiến trong trật tự của các bà nội trợ Nhật sau động đất

Kể từ chiều ngày 12/3 đa phần các siêu thị và tiệm bán đồ tiện lợi đã bắt đầu lần lượt đóng cửa. Nếu như ở Việt Nam mỗi khi có tình huống gì đấy dẫn tới khan hiếm hàng hóa thì mọi thứ đều bị đẩy giá lên chóng mặt thì ở Nhật hoàn toàn không!

Mọi thứ vẫn nguyên giá cho đến giờ phút này thậm chí là con rẻ hơn! Các siêu thị lớn đều nhanh chóng hạ giá gần như toàn bộ mặt hàng xuống 20% để kích thích người mua! Thực sự các siêu thị càng lớn càng sợ dư chấn động đất bởi họ có quá nhiều hàng hóa bày trên kệ trong khi lực lượng nhân viên quá mỏng để có thể bảo vệ được khối lượng hàng hóa đồ sộ như thế. Và họ đã chọn một giải pháp khôn ngoan là hạ giá để kích thích mạnh người mua.

Đấy là về người bán còn cuộc chiến thật sự nằm ở người mua. Và không ai khác đó là các bà nội trợ Nhật. Chủ động và Chớp nhoáng là những từ chính xác cho họ vào thời điểm này.

Dòng người xếp hàng lấy nước trong một sân trường học ngày 13/3.

Ngay khi những đợt dư chấn đầu qua đi họ đã bắt đầu lao ra siêu thị và mua tất cả những gì có thể để tích trữ! Và cuộc chiến này người thắng là những người nhanh nhạy nắm bắt được tình hình để quyết định thời điểm mua sớm nhất.

Cho tới chiều ngày 12/3 các siêu thị lớn đều đã sạch tanh lương thực như thịt cá và đặc biệt là bánh mỳ, thậm chí một khoanh cũng không còn. Còn các tiệm tạp hóa cũng bắt đầu đóng cửa vì không còn mấy để mà bán. Nếu có người nghĩ rằng cảnh mua bán ở siêu thị sẽ là một mớ hỗn loạn và tranh cướp tựa như kiểu hội đền Trần của Việt Nam thì họ đã hoàn toàn nhầm.

Mọi thứ đều diễn ra một cách rất trật tự không la ó không tranh cướp, các quấy thu ngân hoạt động không ngừng mà vẫn có cả hàng người vẫn đang xếp hàng chờ. Cũng có khá nhiều người nhìn gian hàng lương thực trống trơn chán nản bỏ về.

Đó thực sự là một cuộc chiến hoàn toàn trong trật tự, một cuộc chiến mang đậm chất Nhật của các bà nội trợ xứ mặt trời mọc.

Nguyen Bui (Ebina, Kanagawa)

Tình hình người Việt tại Nhật

Điềm tĩnh trước thảm họa

Không kích động, không giận dữ là là tinh thần của người Nhật khi họ làm những gì phải làm trong im lặng và với chân giá trị của mình trong lúc phải hứng chịu trận thảm họa kép hiện nay.

Ngày 13/03 có lẽ là một dấu mốc lịch sử của nước Nhật bởi lần đầu tiên phải đương đầu với mối đe doạ phóng xạ lan khắp nơi kể từ sau cơn ác mộng Nagasaki và Hiroshima bị đánh bom nguyên tử năm 1945.

Bản tin sáng của nhiều tờ báo trong và ngòai nước đã loan tin một trận động đất kinh hoàng 9 độ richter xảy ra ở vùng bờ biển đông bắc Nhật và kéo theo sóng thần cao tới 10m ập vào đất liền khiến hơn 10.000 người mất tích. Nước Nhật tan hoang, ước tính số người thiệt mạng và mất tích được dự báo là đã vượt quá 10.000 trong khi con số tử vong chính thức đã lên đến 1.597 người.

Thảm họa động đất và sóng thần chưa hết, Nhật hiện phải đối mặt với rò rỉ phóng xạ từ các nhà máy điện hạt nhân, mối đe dọa lớn nhất từ trước đến nay. Tính đến ngày 15/3, ít nhất 3 vụ nổ tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi đã xảy ra. Hàng trăm nghìn người trong bán kính 20km kể từ nhà máy hạt nhân đã được sơ tán.

Được biết toàn bộ 5 lò phản ứng (2 ở nhà máy Fukushima số 1 và 3 ở nhà máy Fukushima số 2) trong khu vực bị động đất mạnh nhất đều đã ngừng hoạt động. Nguy cơ tai hại, rò rỉ phóng xạ, đang làm hàng triệu con người lo lắng, không chỉ ở Nhật Bản mà các nước trên thế giới.

Đất nước đứng trước những mất mát, khó khăn và thách thức như vậy, đích thân Thủ tướng Kan và tổng thư ký nội các Edano đã mặc quần áo kaki, trang phục tác nghiệp ở Nhật khi xuất hiện trên truyền hình để trấn an dân chúng và công bố những biện pháp khẩn cấp của Chính phủ.

Đoàn người xếp hàng để chờ nhận nước ở Sendai. Vì đông người quá nên phải xếp uốn cong mới đủ.

Thủ tướng Naoto Kan chia sẻ với nhân dân Nhật rằng: “Động đất, sóng thần và các nhà máy điện hạt nhân là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong 65 năm qua kể từ Thế chiến II. Việc người Nhật chúng ta có vượt qua được thử thách này hay không phụ thuộc và bản thân mỗi chúng ta. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng chúng ta có thể vượt qua được trận động đất và sóng thần ghê gớm này bằng cách đòan kết lại”.

Niềm tin của ông Kan có căn cứ mạnh mẽ. Bởi sự phối hợp gấp rút nhưng nhịp nhàng, bài bản của chính quyền và dân chúng, một thái độ ứng xử trước thảm họa một cách điềm tĩnh và đoàn kết đã chứng minh điều đó.

Khi tới thăm vùng thảm họa, nhà báo Alex Thomson kể lại rằng không hề có khóc lóc, không kích động cũng chẳng chút giận dữ. Đó là tinh thần của người Nhật khi họ làm những gì phải làm trong im lặng và với chân giá trị của mình. Nước đã rút đi, nhưng con sông của thị trấn tràn ra khắp nơi; có nhiều vũng nước biển tù đọng và khắp nơi toàn bùn. Trong khi đó, các nhân viên cứu hộ bình tĩnh nhặt một thi thể nữa và đặt vào một tấm chăn – họ phải làm bằng tay. Với tất cả yêu thương,  kính trọng và nghiêm trang, những người này quấn nạn nhân lại và điều đó gây xúc động hơn bất kỳ một giọt nước mắt nào.

Người thân đã ra đi, tài sản cũng không còn gì nữa nhưng một nụ cười điềm đạm của một chủ nhà hàng ở Minami Sanriku vẫn nở trên môi kể lại may mắn sống sót nhờ tiếng còi báo động.

Từ xưa đến nay, thế giới biết đến Nhật Bản với nền tảng đạo lí cao. Người dân Nhật luôn được rèn luyện tinh thần thép để ứng phó trong mọi hòan cảnh. Ý thức người dân Nhật được thể hiện rõ trong những ngày nước Nhật tan hoang, bối cảnh giao thông khó khăn, mất điện, không có nước sinh hoạt nhưng dân chúng vẫn kiên nhẫn xếp hàng nhận nước, lên xe buýt hoặc chờ gọi điện thoại công cộng. Dù xếp hàng có lâu và dài đến mấy, cũng không ai chen lấn hay xô đẩy, giành giật nhau, tất cả đều im lặng và nhẫn nại.

Do vậy, mặc dù trải qua cơn thảm họa, nhiều người Nhật đau xót nhưng dường như ngay chính người trong cuộc lại có thái độ bình tĩnh hơn người ngoài cuộc. Qua trận thảm khốc này, có lẽ chúng ta cần học tập và rèn luyện một “cái đầu” điềm tĩnh để có được những hành động ứng xử cũng điềm tĩnh và đầy ý thức để ứng biến trong bất kì hoàn cảnh nào như đất nước Nhật đã và đang phải trải qua.

Và không cần phải học những gì cao xa mà chỉ cần bắt đầu học từ việc nhỏ nhất đó là ứng xử trong tham gia giao thông, lễ hội, hay trong sinh hoạt hàng ngày…mỗi người chỉ cần nhường nhịn, ứng xử văn minh, không nóng nẩy thì một ngày nào đó không xa chúng ta cũng sẽ được như nước Nhật hôm nay.

Posted in Japan, Question | 1 Comment »

Thổ Sầu – Nguyễn Ngọc Tư

Posted by BEAR trên Tháng Hai 10, 2011

Lãng phí tài nguyên du lịch: Nghèo nàn sản phẩm du lịch Việt Nam

Thực trạng du lịch Việt Nam: ‘chim cánh cụt’

Lúc vào nách một con sông gày gò chảy cắt qua đồng , Thổ Sầu như một đứa trẻ tuyệt vọng níu tìm vú mẹ . Dọc triền sông , cỏ kết dày , từ trên bờ thò xuống nước như đất đag gục đầu gội tóc , những cây bần de xa khỏi mé sông , những cây sộp rũ rượi xóa tóc chùm rễ nâu , những thân cau lẻ đâm thẳng lên trời , vài tiếng gà nhói lên xa xa … tất cả những thứ đó làm cho vẻ mặt Thổ Sầu buồn thiu . Những chiều phai , nhìn ra sông thấy lục bình trôi lơ phơ mấy cái bông lục bình quá thì , cũng phai như chiều . Ngó ra sau nhà thấy một cái vạt đồng trũng sâu , ngoi lên mặt nước những bông lúa thưa thớt , xanh xao . Vườn cũ có vài cây vú sữa , mù u rụng trái đầy mặt đất , mấy bụi tre bụi trúc vút lên trời 1 chùm xanh ngắt …

Khi tôi ra đời Thổ Sầu đã buồn thâm căn cố đế . Đến nỗi những người ở đây không còn cảm giác để nhân biết buồn nữa . Chỉ khách phương xa mới ngây ngất trước bộ mặt sầu muộn của quê tôi . Họ lặng đi . Bàng hoàng . Ngây dại . Và cơn choáng váng đó đã bật lên một ý nghĩ lạ lùng , Thổ Sầu sẽ làm du lịch .

Tía tôi trở tính lầm lù ngay từ khi Thổ Sầu đón lượt khách đầu tiên . Họ săm soi cái nồi méo mó cháy đen và chụp hình chúng tôi ăn cơm chiều bên ơ kho quẹt mặn chát . Tía tôi nói , giọng nẫu nê , tao muốn chết quá , Đậu ơi . Tôi cũng ngột ngạt cứng mình , nên chỉ biết lúng búng nói , thôi kệ họ … Không giải thích được . tại sao khách lại hớn hở và háo hức khi nhìn thấy những căn nhà cột gặm gió thổi lá mục rơi lả tả , chiếc tivi đen trắng xài bình ắc quy làm thót tim bọn trẻ con khi vở cải lương vẫn còn dài mà khung hình còn chút xíu vì thiếu điện . Những cột xay bột bằng đá xám . Những vách buồng được đan bằng sậy đập giập …

Nhà tôi xiêu vẹo đã lâu . Nhánh khế de trên nóc nhà có bữa rụng xuống mâm cơm của chúng tôi mấy trái chín rục . Vẻ hiu hắt , cũ kỹ của ngôi nhà thường cuốn hút khách dừng chân , ghé vào . Tía tôi tạt vào họ một bộ mặt lạnh tanh , te te bỏ ra vườn , cây gậy dấm dứ trên tay như chực phang vào ai đó . Tôi cũng khó chịu khi người ta hãi hùng níu vai nhau coi tôi lột da chuột dưới cầu ao . Tôi thấy hình ảnh mình – một thằng con trai tàn bạo, man rợ trong mắt họ . Tôi ngọ ngoạy , giãy giụa một cách tuyệt vọng . Bởi suốt một mùa nắng đó , hai tía con tôi chỉ sống nhờ vào tiền bán chuột đồng nên tôi không làm sao cải thiện được hình ảnh của mình .

Khi trời trở gió Nam , mùa mưa kéo theo một bầy sấm chớp ập tới , bộ dang tôi đã bớt tàn nhẫn nhưng vẫn lem luốc vì bận cắm cậu ,đặt trúm , soi nhái . Điều đó làm tôi bị thâm một cái tật là tắm lâu , bùn đất sạch rồi nhưng những ánh mắt vừa thương cảm vừa ghê sợ của những người xa lạ cứ rát trên da tôi . Giữa mùa mưa nắng dẳng dai . Tưởng khách chán Thổ Sầu rồi , không dè khách tới đây ngày càng đông . Thổ Sầu quá quyến rũ , khiến người ta mụ mị đi bởi cái nghèo , giản dị đến mức nguyên thủy . Nhiều người khách mô tả , họ như rơi tõm vào một vũng buồn , và chìm trong thứ bùn mát rượi và thơm ngọt mùi đồng bãi .

Những bữa mưa nhiều , khách mừng húm , khoái chí sì sụp lội ra đường . Họ xách dép lội trật vuột trên con đường ọp ẹp bùn sình , người này nhờ người kia chuoj cho kiểu hình ngoi ngóp . Người nào người nấy hớn hở hết biết .
Tía nhìn cảnh đó ngao ngán lắc đầu . Lại nói tao chết à , Đậu . Với tía tôi , chỉ ở Thổ Sầu hoặc chết , phải tía kêu , mình dời đi chỗ khác , Đậu ơi . Ngay lập tức tôi sẽ đốt phứt cái nhà và dắt tía xuống đò . Chưa biết đi đâu , về đâu nhưng rời bỏ chỗ này trước đã . Nhưng đó không phải lựa chọn của tía , tôi chỉ biết cười buồn ,” sức mất mà tía chết . Từ từ rồi quen thôi , tía “.

Quen , như hầu hết bà con ở Thổ Sầu bắt đầu quen làm du lịch . Họ thôi núp trốn mà để mặc khách chụp hình mình đang nấu cơm trong gian bếp thấp chật chội , củi ướt sủi tăm , mù mịt khói , hay đang hứng nước dột xuống từ mái nhà , hay đang khâu chiếc mền bằng vải vụn … Khách có quá nhiều thứ để giới thiệu Thổ Sầu với bạn bè , một chiếc mùng chi chít những miếng vá nhiều màu , mấy cái đèn cóc lụm tim , chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai , mắt tre dù đã chuốt kỹ vẫn gù lên lông chông .

Nhưng ngộ , người đông đúc , lượn lờ khắp Thổ Sầu những xóm vẫn buồn . Vài nhà định mở quán phở những rốt cuộc , để giữ nét hoang sơ cho xóm , họ lại chỉ bán bánh dừa , bánh khọt , cốm gạo … Chái bếp nhà tôi sập do mối ăn , nhưng không lợp được , phải chờ mưa nắng cho mớ lá mởi ngả màu cũ kỹ một chút . Tía tôi hay kêu trời , bất chợt . Thoảng thốt như trong lòng có những ý nghĩ nào đó bị xáo trộn , bóp ngẹt vọt ra ba tiếng trời ơi trời . Có bữa , tía với tôi ngồi vót tre đan thúng trên tấm đệm rách te tua ngoài hàng ba , vài người khách xăng xái xà vào , kinh ngạc hết hồn khi biết cái thúng kia chỉ bán được chừng mươi ngàn , mà trật vuột lắm , lúc bán được , lúc không . Môt chị nọ bỗng ngó tôi , cất giọng thoảng thốt , không hiểu tại sao người ở đây ai cũng thấy buồn buồn hết . Làm du lịch thì phải vui chớ . Tía tôi cắm phập cây mác xuống đất , cười khan , ” Vui . Nhưng mà nhục … ” . Khách cun cút bỏ đi .

Vì thái độ đó mà tía tôi bị ông trưởng xóm phê bình dữ dội . Chòm tóc thưa của ông chỉ phơ phất ngang vai tôi , tay chém vào không khí liên tục , trưởng xóm nói , ” Xóm mình không tài nguyên đất cát gì hết , chỉ sống nhờ du lịch , không kéo khách tới thì thôi , sao anh Hai lại đuổi khách đi “. Tía tôi ngồi im re , không thưa thớt , phân bua gì , nhưng ánh mắt lầm lì , khinh khỉnh .

Khi năng trở lại ủ Thổ Sầu trong màu vàng úa hoang hoải , sự thù ghét người lạ trong lòng tía tôi lại càng chất chứa . Tánh tía tôi rất cố chấp . Mà cũng do khách không thèm giấu che những ý nghĩ của mình . Những người có quá khứ nghèo thì phơ phởn thấy mình đã thoát được cái nơi ( tương tự ) như Thổ Sầu . Những người chưa từng nếm trải cảm giác cuộc sống quê mùa thì trầm trồ , thắc mác nhiều chuyện không đâu , thí dụ như chỉ ăn cơm suông , chừng nào hết cơm mới đụng đến mớ đồ ăn ít ỏi. Người thấy cuộc sống chật chội , nặng nề đến đay , bỗng thấy mình ham sống , thấy tràn trề sức lực trong cuộc chen chúc mưu sinh . Phụ nữ luôn có nụ cười kỳ lạ , như thể không ngậm miệng được , nụ cười biết nói , ” vậy mình quá giàu so với đám người này “. Dám đàn ông ánh mắt cũng mãn nguyện không kém , ” dám chắc là trong ba tháng nữa bà vợ mình không than vãn chuyện lương thấp lương cao “.

Chỉ mấy đữa trẻ là dễ thương. Toi thích nhìn vẻ thất vọng não bề của chúng khi tới xóm tôi . Tôi bỏ rất nhiều thời gian la cà ngoài bến , ngó mấy đứa nhỏ giãy nảy , kêu khóc bên đôi giày leo núi và bộ đồ tắm biển thừa thãi . Tôi cười ngất . Nhất là khi ra về , nhiều đứa ấm ức cằn nhằn :

– Hổng vui gì hết … Nhìn người ta nghèo hổng vui gì hết .

Nghe câu đó tôi vừa thích , vừa thương . Ông trời mà cho tôi thằng con như vậy , dám tôi đội lên đầu lắm.

Tôi nói điều đó với Huệ , đứa con gái bên xóm chuyên thắt cào cào bằng lá dừa bán cho khách du lịch . Nó cười buồn , biểu tôi , muốn có con thì rủ con Mận hay con Đèo . Mai mốt nhà Huệ đã dời ra chợ huyện . Má nó ao ước trước lúc chết rong nhà có cái ti vi màu .

Khách sẽ bực lắm , thất vọng lắm nếu giữa Thồ Sầu đìu hiu lại có ti vi màu .

Huệ nhìn tôi một cách vô vọng, ” Dậu đi với Huệ nghen ? “. Tôi cúi mặt nhìn đôi bàn chân đang ngập trong bùn , không , tôi không bỏ Thổ Sầu được ,vì tía tôi không đời nào chịu dời đi. Vì sau vườn cỏ lại mon men bò lên mộ má tôi, ông bà tôi …

 


Hôm qua, tôi đọc truyện này…Và tôi nhớ đến một cuộc tranh luận mới đây về chuyện lấy hình ảnh bán hàng rong để quảng bá cho du lịch Việt Nam…

Posted in Question | Leave a Comment »

ĐẠO PHẬT và DÂN CHỦ (Dạt Lai Lạt Ma)

Posted by BEAR trên Tháng Một 27, 2011

ĐẠO PHẬT và DÂN CHỦ (Dạt Lai Lạt Ma)

Buddhism and Democracy

Dalai Lama

Washington, D.C., April 1993

Nguồn: Trang nhà Dalai Lama

Trần Quốc Việt, X-Cafe chuyển ngữ

Thu, 01/27/2011 – 00:44

http://www.x-cafevn.org/node/1684

Trong suốt hàng ngàn năm người ta đã lầm tưởng rằng chỉ có tổ chức chuyên chế xử dụng những biện pháp kỷ luật cứng rắn mới có thể trị vì được xã hội con người. Tuy nhiên, vì mong muốn tự nhiên của con người là được tự do, cho nên trong suốt chiều dài lịch sử lực lượng tự do và lực lượng trấn áp xung đột không ngừng lẫn nhau. Ngày nay rõ ràng là lực lượng nào đang thắng. Sự xuất hiện các phong trào quyền lực của nhân dân lật đổ các chế độ độc tài tả và hữu đã chứng minh hiển nhiên rằng nhân loại không thể nào chấp nhận chế độ độc đoán và cũng không thể nào hoạt động tốt được dưới chế độ ấy.

Tuy trong các xã hội Phật giáo không có xã hội nào phát triển được điều gì tương tự như nền dân chủ trong hệ thống chính quyền của họ, nhưng bản thân tôi lại rất khâm phục nền dân chủ thế tục. Thời Tây Tạng còn tự do, chúng tôi coi trọng sự biệt lập tự nhiên của mình, tưởng lầm rằng chúng tôi có thể duy trì được sự thanh bình yên ổn như thế mãi. Do vậy, chúng tôi không màng gì đến những thay đổi diễn ra ở thế giới bên ngoài. Chúng tôi hầu như không nhận thức khi Ấn Độ, một trong những nước láng giềng gần gủi chúng tôi nhất, sau khi giành được độc lập một cách êm ả, đã trở thành một nước dân chủ lớn nhất trên thế giới. Về sau chúng tôi mới cay đắng nhận ra rằng trên trường quốc tế hay ở trong nước tự do là điều ta nên chia xẻ và tận hưởng cùng với người khác, chứ không giữ riêng cho mình.

Tuy những người Tây Tạng bên ngoài Tây Tạng giờ chỉ còn là những thân phận tỵ nạn, nhưng chúng tôi vẫn có tự do thực thi các quyền của mình. Trong khi đó, dù được sống trên quê hương, các anh chị em chúng tôi ở Tây Tạng thậm chí không có cả đến quyền sống. Cho nên trong chúng tôi những ai sống lưu vong đều có trách nhiệm nghĩ đến và phác họa ra tương lai của Tây Tạng. Vì thế, trong suốt nhiều năm qua và bằng nhiều phương tiện khác nhau chúng tôi đã cố gắng đạt đến mẫu mực của nền dân chủ đích thực. Điều này được chứng minh qua sự am hiểu tường tận của tất cả người Tây Tạng lưu vong về từ “dân chủ”.

Từ lâu tôi đã mong đợi đến ngày chúng tôi có thể nghĩ ra hệ thống chính trị phù hợp với truyền thống của chúng tôi và với những đòi hỏi cấp bách của thế giới hiện đại. Một nền dân chủ có cội rễ là bất bạo động và bình an. Chúng tôi mới đây đã khởi sự những thay đổi nhằm sẽ dân chủ hoá hơn nữa để làm cho chính quyền lưu vong của mình thêm vững chắc. Vì nhiều lý do, tôi đã quyết định tôi sẽ không lãnh đạo hay đóng vai trò gì trong chính phủ khi Tây Tạng được độc lập. Nhà lãnh đạo tương lai của chính phủ Tây Tạng phải là người được đa số nhân dân bầu lên. Sự khởi đầu như thế sẽ mang đến nhiều điều lợi ích và nhờ bước đi ban đầu như thế chúng tôi sẽ có thể trở thành một nước dân chủ thật sự và hoàn toàn. Tôi hy vọng những bước ban đầu này sẽ cho phép nhân dân Tây Tạng có tiếng nói rõ ràng trong việc quyết định tương lai của nước mình.

Sự dân chủ hoá của chúng tôi đã mở rộng đến những người Tây Tạng trên khắp thế giới. Tôi tin những thế hệ tương lai sẽ coi những thay đổi này thuộc về những thành tựu quan trọng nhất trong đời lưu vong của chúng tôi. Hoàn toàn giống như sự du nhập đạo Phật vào Tây Tạng đã hun đúc nên quốc gia chúng tôi, tôi tự tin rằng sự dân chủ hoá xã hội sẽ tăng thêm sinh lực cho nhân dân Tây Tạng và giúp các thể chế ban ra những quyết định quan trọng có thể phản ánh được những nhu cầu và nguyện vọng thật sự của nhân dân.

Tư tưởng cho rằng con người có thể sống chung tự do với nhau như những cá nhân, bình đẳng về nguyên tắc và vì thế có trách nhiệm lẫn nhau, về cơ bản là hợp với Phật tánh. Là Phật tử, những người Tây Tạng chúng tôi tôn kính nhân sinh như quà tặng quý giá nhất và tôn trọng triết học và lời dạy của đức Phật như con đường đưa đến hình thái tự do cao quý nhất. Đây là mục tiêu mọi người dù nam hay nữ đều nên đạt đến.

Đức Phật thấy mục đích thật sự của cuộc đời là hạnh phúc. Người cũng thấy tuy vô minh trói buộc chúng sinh trong triền miên phiền nảo và khổ lụy, nhưng trí huệ Bát nhã soi sáng con đường giải thoát. Dân chủ hiện đại được dựa trên nguyên tắc rằng tất cả mọi người cơ bản đều bình đẳng, rằng mỗi người trong chúng ta đều bình đẳng về quyền sống, tự do, và hạnh phúc. Đạo Phật cũng thừa nhận mọi người ai ai cũng đều có nhân phẩm, và tất cả những thành viên trong gia đình nhân loại đều có quyền tự do bình đẳng và bất khả xâm phạm, không chỉ về tự do chính trị, mà còn ở mức độ tự do cơ bản là thoát khỏi cảnh đói nghèo và sợ hãi. Không phân biệt kẻ giàu người nghèo, kẻ có học hay người vô học, người nước này hay nước khác, người theo tôn giáo này hay tôn giáo khác, người trung thành với ý thức hệ này hay ý thức hệ khác, mỗi người trong chúng ta đều vẫn chỉ là một con người như bao con người khác. Không những tất cả chúng ta đều mong muốn hạnh phúc và tìm cách tránh đau khổ, mà mỗi người trong chúng ta còn có quyền bình đẳng để mưu cầu những mục tiêu này.

Thể chế đức Phật sáng lập ra là Sangha hay tăng đoàn, hoạt động theo đường lối chủ yếu dân chủ. Bên trong giáo đoàn này, cho dù giai cấp xã hội hay đẳng cấp xuất thân nào chăng nữa, mọi cá nhân đều bình đẳng. Khác biệt rất nhỏ duy nhất về địa vị phụ thuộc vào tuổi thọ giới. Tự do cá nhân, thể hiện qua sự giải thoát hay giác ngộ, là trọng tâm chính của toàn thể cộng đồng và được đạt đến nhờ tu tâm qua thiền quán. Tuy nhiên, quan hệ hằng ngày với nhau diễn ra trên nền tảng của lòng quảng đại, sự tương kính, và hoà nhã. Khi theo đuổi cuộc đời xuất gia, chư tăng đã lánh xa mọi lo toan của cải. Song họ không sống hoàn toàn biệt lập. Tục lệ khất thực chỉ để cho họ ý thức sâu sắc hơn sự phụ thuộc của họ vào người khác. Trong cộng đồng này mọi quyết định đều thông qua bằng lá phiếu và mọi khác biệt đều được giải quyết qua sự đồng thuận. Như thế Sangha là mẫu mực về sự bình đẳng xã hội, cùng chia xẻ tài sản chung và quá trình dân chủ.

Đạo Phật về cơ bản là giáo lý thực tế. Khi bắt đầu giải quyết vấn đề đau khổ của con người, đạo phật không khẳng định chỉ có một lời giải duy nhất. Do xác định con người vốn khác biệt nhau rất nhiều về nhu cầu, bản tánh và tài năng, nên đạo Phật thừa nhận có nhiều con đường đưa đến an lạc và hạnh phúc. Là cộng đồng tinh thần, sự gắn bó của cộng đồng bắt nguồn từ ý nghĩa hợp nhất của tình anh chị em. Đạo Phật đã trường tồn trong suốt hơn hai ngàn năm trăm năm tuy không có bất kỳ tổ chức lãnh đạo trung ương chính thức rõ ràng nào. Đạo Phật đã phát triển thành nhiều hình thức đa dạng, trong khi đó, nhờ tu tập, đạo đã không ngừng hiểu mới những lời giảng dạy căn bản của đức Phật. Muôn nẻo đường đưa đến đạo này, đều do chính các cá nhân chịu trách nhiệm, rất hợp với quan điểm dân chủ.

Chúng ta ai ai cũng muốn tự do, nhưng con người nổi bật là nhờ ở thông minh. Là người tự do chúng ta có thể dùng sự thông minh duy nhất này để cố gắng hiểu mình và hiểu đời. Đức Phật dạy rất rõ ràng ngay cả các Phật tử không nên tiếp nhận mà không suy nghĩ lời dạy của Người, mà phải suy xét và kiểm chứng những lời dạy ấy như người thợ kim hoàn thử chất lượng của vàng. Nhưng nếu chúng ta bị ngăn cấm không được dùng đến khả năng phân biệt và óc sáng tạo của mình, thì chúng ta đánh mất đi một trong những đặc trưng cơ bản của con người. Vì thế, tự do chính trị, xã hội và văn hoá mà nền dân chủ tạo ra có giá trị và tầm quan trọng vô cùng.

Không có hệ thống chính quyền nào hoàn thiện, nhưng dân chủ lại gần gủi nhất với bản chất cơ bản của con người. Dân chủ cũng là nền tảng trên đấy con người có thể dựng lên cấu trúc chính trị công bằng và tự do trên phạm vi toàn cầu. Cho nên vì quyền lợi của tất cả chúng ta những ai trong chúng ta đang hưởng dân chủ nên tích cực ủng hộ quyền được hưởng dân chủ như thế của tất cả mọi người.

Mặc dù chủ nghĩa cộng sản theo đuổi nhiều lý tưởng cao quý, trong đó có sự xả thân quên mình, nhưng nỗ lực của tầng lớp cầm quyền cao nhất để áp đặt quan điểm của họ đã gây ra bao thảm khốc. Những chính quyền này đã tìm đủ mọi cách nhằm kiểm soát xã hội và xúi dục nhân dân của họ làm việc vì lợi ích chung. Ban đầu tổ chức theo đường lối cứng rắn có thể cần thiết để đánh bại được các chế độ áp bức cũ. Tuy nhiên một khi mục tiêu ấy đã đạt được, sự cứng rắn như thế lại đóng góp rất ít vào công cuộc xây dựng xã hội thật sự hợp tác. Chủ nghĩa cộng sản đã thất bại hoàn toàn vì nó dựa vào vũ lực để cổ vũ cho niềm tin của mình. Cuối cùng, bản chất con người không thể nào chịu đựng mãi đau khổ do chủ nghĩa này gây ra.

Vũ lực tàn bạo, dù có được áp dụng mạnh mẽ đến đâu chăng nữa, vẫn không bao giờ có thể dập tắt nổi niềm mơ ước tự do căn bản ở con người. Hàng trăm ngàn người xuống đường ở các thành phố Đông Âu đã minh chứng điều này. Họ chỉ thể hiện nhu cầu tự do và dân chủ của con người. Những đòi hỏi của họ chẳng có liên quan gì đến ý thức hệ mới nào; họ chỉ muốn bày tỏ niềm ao ước tự do chân thành của mình. Không như các chế độ cộng sản tưởng rằng ngưòi ta chỉ cần có cơm ăn, áo mặc, và nơi ở, là đủ. Bản chất sâu xa hơn trong con người còn đòi hỏi chúng ta phải thở được khí trời tự do quý giá.

Các cuộc cách mạng ôn hoà ở Liên Xô và Đông Âu cũ đã cho chúng ta nhiều bài học lớn. Một bài học về giá trị của sự thật. Người ta không ai thích bị bắt nạt, bị lường gạt hay bị lừa dối dù bởi cá nhân hay chế độ. Những hành động như thế đi ngược lại tinh thần cơ bản của con người. Vì vậy, những ai thực hành sự gian dối và dùng đến vũ lực có thể đạt được thành công đáng kể ngắn hạn, nhưng rồi cuối cùng họ nhất định sẽ bị lật đổ.

Sự thật là người bảo đảm tốt nhất và là nền tảng thật sự của tự do và dân chủ. Không quan trọng là ta yếu hay ta mạnh hay sự nghiệp ta đeo đuổi có ít hay nhiều người theo, sự thật vẫn luôn luôn thắng. Mới đây, nhiều phong trào tự do thành công đều dựa trên sự bày tỏ chân thật những tâm tư căn bản nhất của con người. Đây là một sự nhắc nhở quý giá rằng chính sự thật vẫn hiện đang thiếu trầm trọng trong đa phần cuộc sống chính trị của chúng ta. Nhất là trong sự hành xử trong các quan hệ quốc tế chúng ta lại càng rất ít tôn trọng sự thật. Tất yếu, các nước yếu hơn bị các nước mạnh hơn nhào nặn và lấn áp, tựa như những thành phần yếu thế trong đa số các xã hội chịu đau khổ dưới tay của thành phần giàu có hơn và quyền thế hơn. Trong quá khứ, sự bày tỏ sự thật đơn thuần thường bị bỏ qua vì xem là không thực tế, nhưng những năm vừa qua này đã chứng minh sự thật là một sức mạnh vô cùng lớn trong tâm hồn con người và, từ đấy, tạo ra sức mạnh vô cùng lớn quyết định dòng chảy của lịch sử.

Khi chúng ta đến gần cuối thế kỷ hai mươi, chúng ta nhận ra rằng thế giới ngày càng thu nhỏ lại và mọi người trên thế giới càng nép lại bên nhau như trong cùng một cộng đồng. Chúng ta cũng tự đến gần nhau hơn qua những vấn đề nghiêm trọng chúng ta cùng đối diện: bùng nổ dân số, cạn kiệt tài nguyên, và khủng hoảng môi trường mà đe doạ đến chính nền tảng tồn tại trên hành tinh nhỏ bé chúng ta cùng chung sống này. Tôi tin để đương đầu với thử thách ấy, con người sẽ phải hình thành ý thức trách nhiệm phổ quát lớn lao hơn. Mỗi người trong chúng ta phải học để nổ lực không chỉ riêng cho bản thân, gia đình, quốc gia mình, nhưng cũng vì cho lợi ích chung của tất cả nhân loại. Trách nhiệm phổ quát là nhân tố thật sự rất quan trọng cho sự tồn vong của con người. Trách nhiệm ấy là nền tảng tốt nhất cho nền hoà bình thế giới, sự xử dụng bình đẳng tài nguyên, và bảo vệ tốt môi trường.

Nhu cầu hợp tác cấp thiết này chỉ tăng thêm sức mạnh cho nhân loại, bởi lẽ nhu cầu ấy giúp chúng ta thừa nhận rằng nền tảng vững bền nhất cho nền trật tự thế giới mới không phải đơn thuần là các liên minh chính trị và kinh tế rộng mở hơn, mà chính là sự thực hành đích thực tình thương yêu và lòng từ bi ở từng cá nhân. Những phẩm hạnh này là suối nguồn hạnh phúc cao quý nhất của con người, và nhu cầu thương yêu và từ bi ấy chính là cốt lõi đời người chúng ta. Thực hành lòng từ bi thực ra không phải là sự biểu hiện lý tưởng không tưởng, nhưng là cách hữu hiệu nhất để theo đuổi quyền lợi tốt nhất cho người khác và cho mình. Dù là cá nhân hay quốc gia, chúng ta càng phụ thuộc vào người khác bao nhiêu thì vì quyền lợi tốt nhất của chính mình chúng ta càng nên tạo ra hạnh phúc cho họ.

Dù nền văn minh trong thế kỷ này đã tiến rất nhanh, tôi vẫn tin nguyên nhân trực tiếp nhất của vấn đề nan giải hiện nay là chúng ta đã quá nhấn mạnh chủ yếu vào sự phát triển vật chất. Chúng ta quá bận tâm đến sự mưu cầu vật chất đến độ ngay cả không biết rằng chúng ta đã không khích lệ nhu cầu căn bản nhất ở con người tức thương yêu, nhân ái, hợp tác và tương trợ. Nếu chúng ta không biết ai hay không cảm thấy gắn bó với nhóm hay cá nhân cụ thể nào, chúng ta đâu quan tâm đến nhu cầu của họ. Tuy nhiên sự phát triển của xã hội loài người là hoàn toàn nhờ vào sự giúp đỡ lẫn nhau giữa mọi người. Một khi chúng ta mất đi lòng nhân cơ bản vốn là nền tảng ấy của mình, thì ích lợi gì khi chỉ mưu cầu sự tiến bộ vật chất?

Trong hoàn cảnh hiện nay, không ai có thể trông mong người khác sẽ giải quyết vấn đề thay cho mình. Mỗi cá nhân đều có trách nhiệm góp phần hướng dẫn đại gia đình toàn cầu của chúng ta đi theo chiều hướng đúng và chúng ta phải gánh vác trách nhiệm ấy. Điều chúng ta nhắm đến chính là sự nghiệp chung của cả xã hội. Nếu xã hội nói chung thịnh đạt, thì tự nhiên mỗi cá nhân hay tập thể trong xã hội đều có lợi. Còn nếu xã hội nói chung suy sụp, thì chúng ta còn biết mong vào đâu để đấu tranh và đòi hỏi các quyền của mình?

Riêng tôi, tôi thật sự tin cá nhân có thể có ảnh hưởng tích cực đến xã hội. Là nhà sư Phật giáo, tôi cố gắng phát tâm từ bi của mình -không chỉ từ quan điểm tôn giáo, mà cũng từ quan điểm nhân đạo. Nhằm khuyến khích mình hướng đến thái độ vị tha này, đôi khi tôi thấy hữu ích khi hình dung mình, một cá nhân đứng riêng lẻ ở một bên, còn phía bên kia là cả một đám đông vô cùng lớn gồm tất cả những người khác . Rồi tôi tự hỏi: “Quyền lợi của ai quan trọng hơn?” Đối với tôi câu trả lời rất rõ ràng là, dù tôi cảm thấy mình quan trọng thế nào chăng nữa, tôi vẫn chỉ là một, còn họ là đa số.

Posted in Opinions | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

Thời vắng những nhà văn hoá lớn? – Trần Hữu Dũng

Posted by BEAR trên Tháng Một 18, 2011

http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/8407/the-he-vang-vu-dinh-hoe-khong-lap-lai.html

Thời vắng những nhà văn hoá lớn? – Trần Hữu Dũng

Trong một lần gặp gỡ một nhóm sinh viên trẻ ở Hà Nội vài năm trước, tôi hỏi các em: Trong xã hội Việt Nam ngày nay, đặc biệt là trong lãnh vực văn hoá, các em ngưỡng mộ ai nhất? Và tôi ngạc nhiên khi chẳng em nào trả lời tôi được! Nhớ lại hồi còn trẻ, tôi có thể kể năm bảy người mà tôi ngưỡng mộ, những Đào Duy Anh, những Nguyễn Mạnh Tường, những Trần Đức Thảo, những Hoàng Xuân Hãn, những Nguyễn Hiến Lê…  Còn ngày nay? Có thể chăng chúng ta đang sống trong thời vắng những nhà văn hoá lớn?

1

Thế nào là một nhà văn hoá lớn? Tất nhiên, xã hội nào cũng có những trí thức, những người tham gia (có thể rất tích cực) vào hoạt động văn hoá trong lãnh vực này hoặc lãnh vực nọ… Song, những nhà văn hoá lớn có một vai trò vượt trội những trí thức khác, và không phải bất cứ xã hội nào, lúc nào cũng có những nhà văn hoá như thế. Đó là những người mà sự uyên thâm và nhất là tính kiên trì nghiên cứu (nhiều khi lặng lẽ), năng suất làm việc phi thường (hàng mấy chục quyển sách, hàng trăm bài báo, chằng hạn) hầu như là huyền thoại trong dân gian. Chính tư tưởng của họ “định nghĩa” tính thời đại của một nền văn hoá. Nhà “văn hoá lớn”, nói cách khác, là người có những suy nghĩ vừa sâu vừa rộng, đưa ra những khám phá, lập luận, có tính tổng hợp, liên ngành (ví dụ như lịch sử văn học, triết học nhân chủng học), không bị giới hạn trong một ngành chuyên môn nào. Nhà văn hoá lớn là người có những ý tưởng độc đáo, hoặc có biệt tài tổng kết nhiều luồng tư tưởng khác nhau, từ nhiều lãnh vực khác nhau. Người ấy luôn luôn bám chặt vào những tiêu chuẩn học thuật cao nhất. Qua công việc nghiên cứu của họ, họ khơi dậy sự quan tâm, nâng cao trình độ thảo luận về những vấn đề lịch sử, xã hội, văn minh… nói chung là văn hoá.

Một nhà văn hoá lớn còn phải là một nhà văn hoá dấn thân, nghĩa là, dù tư tưởng của họ có trừu tượng đến mấy, sự chọn lựa chủ đề của họ, hoặc cách tiếp cận chủ đề ấy, luôn luôn có một khiá cạnh nhân bản, hoặc là xuất phát từ những sự trăn trở đối với những vấn đề căn bản của xã hội, của con người (đặc biệt là, nếu hoàn cảnh bắt buộc, những vấn đề liên hệ đến tự do và nô lệ, đến chiến tranh và hoà bình). Nếu đã được đào luyện như là nhà khoa học, một nhà văn hoá lớn có trách nhiệm suy nghĩ về tính nhân văn, tính xã hội của ngành khoa học ấy. Văn hoá, tự thân, là một hiện tượng công cộng. Nhà văn hoá lớn có khả năng khuếch trương tính công cộng của khoa học mà không hi sinh chuẩn mực học thuật. Một nhà văn hoá lớn cống hiến cho xã hội một hệ tư tưởng, nhất là trong lãnh vực xã hội và nhân văn, có khả năng khuấy động những trao đổi, đóng góp của những người khác trong lãnh vực ấy, và qua đó, làm giàu cho sinh hoạt tư tưởng của xã hội.

Nhà văn hoá lớn ngày nay cần phải theo dõi khít khao các luồng tư tưởng về văn hoá, chính trị, kinh tế… thế giới, bởi thế khả năng ngoại ngữ là cần thiết. Tuy nhiên, một nhà văn hoá lớn Việt Nam phải là người nhìn những luồng tư tưởng ấy qua lăng kính dân tộc và văn minh của người Việt Nam. Nói khác đi, một nhà văn hoá lớn phải đặt vấn đề văn minh của dân tộc (dù chỉ để phủ nhận nó, nếu muốn!) làm một trọng điểm của ý thức. Kiến thức là thiết yếu, nhưng một nhà văn hoá lớn phải đem kiến thức ấy phục vụ mục đích nhân văn. Nhà văn hoá lớn ngày nay phải thấm nhiễm tư duy “toàn cầu hoá” nhưng cũng phải có một thái độ rạch ròi về hậu quả của hiện tượng này đến những vấn đề quốc gia và dân tộc.

Những nhà văn hoá lớn là những ngôi sao đặc biệt sáng ngời trong bầu trời có thể đã rất nhiều sao. Những nhà văn hoá lớn không nhất thiết là những thiên tài bẩm sinh (thậm chí, họ càng đáng nễ phục, càng nhiều ảnh hưởng, nếu công trình văn hoá của họ là do sự kiên trì nghiên cứu, tự học…). Một nhà khoa học xuất chúng có thể đáng ngưỡng mộ nhưng chưa chắc đã là một nhà văn hoá lớn theo nghĩa ở đây.

2

Nếu định nghĩa những nhà văn hoá lớn theo cách đó thì rõ ràng là chúng ta, hiện nay, rất thiếu những nhà văn hoá lớn. Tại sao như thế?

Nhiều người sẽ đổ lỗi cho xã hội. Xã hội không bồi dưỡng những nhà văn hoá nói chung thì làm sao có những nhà văn hoá lớn? Sự thiếu tôn vinh này quả là đáng tiếc nhưng chưa đủ để giải thích sự thưa vắng những nhà văn hoá lớn, vì sự thực là, như lịch sử cho thấy, đại đa số những ngưòi này không làm việc vì tiền, hay để được xã hội tôn vinh, khen ngợi. Họ cật lực suy nghĩ, viết lách, giảng dạy… vì một sự thôi thúc nội tâm, không phải vì những phần thưởng từ bên ngoài. Thậm chí, nhiều người hãnh diện vì đời sống “khổ hạnh” của mình.

Giả thuyết thứ hai, liên hệ đến giả thuyết thứ nhất, nhưng có vẻ thuyết phục hơn. Dường như ngày càng nhiều phát giác những vụ đạo văn, những vụ lừa bịp, nói chung là những hành động thiếu đạo đức của một số người đã có thời được xem là những “đại thụ văn hoá”. Có thể giải thích rằng những hành động thiếu đạo đức ấy là sự sa ngã do cám dỗ của một xã hội quá trọng vật chất. Những người đáng lẽ là “anh hùng” té ra lại có những cặp chân bằng đất sét.

Bởi vậy, sự thiếu vắng những nhà văn hoá lớn, tôi nghĩ, chỉ phần ít là lỗi của xã hội, mà phần lớn là nhược điểm của chính cộng đồng trí thức (là vườn ươm những nhà văn hoá lớn). Oái oăm là, như vẫn thường nói, “thời thế tạo anh hùng”, thì “thời thế” ngày nay không đến nỗi quá bức xúc để anh hùng “đứng lên”. Cái “lỗi” của xã hội hiện tại không phải vì nó tích cực trù dập những hạt giống văn hoá lớn, nhưng ở sự làng nhàng, sự tầm thường tẻ nhạt cuả nó. Các vấn đề căn bản của xã hội, của con người, đòi hỏi những công trình văn hoá dài hạn, song những “khích lệ” cho các công trình văn hoá trong xã hội ngày nay, nếu có, lại có tính ngắn hạn. Có một sự so le giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng văn hoá.

Nhiều người sẽ cho rằng sự thiếu vắng những trí thức lớn còn có một nguyên do khác, rằng một người trí thức “công cộng” phải được phép tự do phát biểu. Một việc còn rất hạn chế trong hoàn cảnh hiện nay. Nhưng theo tôi, yếu tố thật cần là những cuộc tranh luận, nghĩa là cần những nhà văn hóa lớn khác, và những cuộc tranh luận đó phải bình đẳng, tôn trọng những tiêu chuẩn học thuật phổ quát. Trong tranh luận văn hoá, không ai được quyền dựa vào một thế lực nào ngoài văn hoá.

Có thể rằng, là một nhà văn hoá lớn ngày nay cần có những kiến thức, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ kiến thức về sinh hoạt văn hoá toàn cầu, hơn bao giờ hết. Nhưng không hẳn là như vậy: có cả vạn người, hàng ngày luớt web khắp thế giới, nhưng chưa bao giờ thực sự là nhà văn hoá. Những thông tin họ biết là hời hợt, nông cạn. Bởi vậy, cái nghịch lý của nhà văn hoá lớn ngày nay là phải vừa biết nhiều, nhưng không cần biết hết, mà phải biết sâu. Phải biết tổng hợp những điều mình nghe thấy với những suy nghĩ của riêng mình. Đây cũng có thể là một lý do của sự thưa vắng những nhà văn hoá lớn, tuy số “trí thức khoa bảng” thì ngày càng nhiều: Với sự chuyên biệt hóa ngành học, ngày càng hiếm đi những người thông thạo nhiều ngành khác nhau, có đủ sức tổng hợp thành một hệ thống tư tưởng độc sáng.

3

Xác nhận sự thiếu vắng những nhà văn hoá lớn là một việc, kết luận rằng đó là một sự kiện đáng quan ngại lại là một việc khác! Bởi, có người sẽ hỏi: tại sao chúng ta cần những nhà văn hoá lớn? Chúng ta có rất nhiều nhà khoa học, giáo sư, kỹ sư mọi ngành cần thiết cho sự phát triển của đất nước (và chúng ta không bao giờ thiếu những nhà thơ, nhà văn!).  Như vậy không đủ sao? Tôi nghĩ là không đủ. Đúng là chúng ta cần phát triển kinh tế, cần cơm ăn áo mặc, cần một đời sống văn hoá không đến nỗi nghèo nàn… Nhưng chúng ta cũng cần những tinh hoa vượt trội. Dù bầu trời đã lấp lánh muôn sao, chúng ta vẫn cần những ngôi sao thật sáng. Đó là những ngôi sao chỉ đường, bởi lẽ một xã hội phải biết hướng tiến cho văn hoá của xã hội ấy.

Nhưng tầm vóc của một nhà văn hoá không phải ngày một ngày hai mà có đuợc. Hãy hi vọng rằng ngay giờ phút này đây đang có những nhà văn hoá trẻ miệt mài xây dựng sự nghiệp văn hoá của mình. Cho những ngưòi trẻ này, vào những ngày xuân hôm nay, chúng ta nâng ly chúc mừng và chúc các bạn kiên trì, may mắn, cho bạn, mà cũng cho chúng ta.

Trần Hữu Dũng
Tháng 12, 2010

Những bài khác của Trần Hữu Dũng

Posted in Opinions, Question | Leave a Comment »