Thảm họa và nhân cách người Nhật
Không ai có thể phủ nhận rằng giáo dục đã thay đổi và tạo nên nhân cách người Nhật hiện nay và gián tiếp khiến nước Nhật trở nên hùng cường.
Điều gì làm nên sự khác biệt?
Sự kiện động đất, sóng thần, hiểm họa rò rỉ phóng xạ tại Nhật Bản đã thu hút sự quan tâm, chia sẻ của cả xã hội Việt Nam. Người dân Việt từng ngày, từng giờ theo dõi, cập nhật tin tức thảm họa của nước Nhật, chia sẻ, lo lắng với những gì người Nhật đang phải gánh chịu. Đông đảo chương trình viện trợ, cứu trợ đã và đang được triển khai, ở đủ quy mô dành cho đất nước Nhật.
Và người Việt cũng vô cùng ngưỡng mộ thái độ, phẩm cách cùng văn hóa ứng xử trong cộng đồng của người Nhật trước tai ương.
Điều này không chỉ riêng Việt Nam. Báo chí Trung Quốc cũng ca ngợi thái độ điềm tĩnh và đạo lý của người Nhật trong thảm họa. Đồng thời so sánh chuyện gì sẽ xảy ra nếu thảm họa xảy ra tương tự tại Trung Quốc.
Sự khâm phục của người Việt ta là có cơ sở. Trong thảm họa, tại Nhật đã không có những hiện tượng trộm cắp, cướp bóc và hỗn loạn như ở những nước văn minh phía tây và cực nam bán cầu gần đây. Điều gì làm nên sự khác biệt này?
Câu trả lời là nhân cách người Nhật không có và không cho phép xử sự như vậy. Trong những năm sống ở Nhật Bản, 1 câu nói về nhân cách từ người bạn sinh viên Nhật Bản luôn ám ảnh người viết bài này và luôn được đem ra kiểm chứng trong thực tế. Đó là: “Dù có bị đạp xuống dưới đất thì [người Nhật] cũng không được đánh mất nhân cách của mình.”
Ít người biết rằng cách đây không lâu, chỉ chừng 2 đời người, nước Nhật vẫn còn nhiều những tệ nạn giống như những nước đang phát triển. Ví dụ nạn tiểu tiện, xả rác ra đường. Người Nhật thời đó cũng có quan niệm coi trọng của riêng hơn của chung. Quan chức, nhân viên nhà nước thời đó cũng hách dịch lắm, cho rằng mình thuộc tầng lớp tinh túy mà ban phát ân huệ cho dân chúng. Ngược thời gian lên trên nữa, nếu đọc những cuốn sách như Phúc ông tự truyện hay Khuyến học của Fukuzawa Yukichi, thấy người Nhật cũng đầy rẫy những thói hư tật xấu. Dân chúng ai ai cũng vun vén lợi ích riêng, chính phủ thì tàn bạo, quan chức thì tham lam v.v.
Câu trả lời không thể là đơn giản. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận rằng giáo dục đã thay đổi và tạo nên nhân cách người Nhật hiện nay và gián tiếp khiến nước Nhật trở nên hùng cường. Thật may mắn cho nước Nhật là thời Minh Trị Duy Tân, họ có một Chính phủ thực sự biết lắng nghe dân và vì lợi ích của người dân. Nếu thiếu điều kiện này, sẽ không bao giờ có hình ảnh Nhật Bản hiện tại.
Nhân cách người Nhật được đánh giá là kiên trì, chăm chỉ, hài hòa, kỷ luật, trật tự, trọng danh dự, tôn trọng người khác, thông minh nhưng khiêm tốn. Tường nhà và vách ngăn phòng của người Nhật thường không quét vôi mà dán giấy, trên nền giấy vẽ những bông hoa trang nhã.
Không nói ra nhưng người Nhật ví mình như những bông hoa dán tường, nằm im lặng ở góc xa nhất, nơi ít thu hút sự chú ý của mọi người. Nếu bạn không để ý thì thôi, nếu bạn để ý đến sẽ thấy vẻ đẹp tinh tế của nó. Những câu như: “Là người Nhật, tôi luôn để ý đến sự chi tiết, tỉ mỉ…” là không có trong cách phát ngôn của người Nhật bình thường vì họ không nói về cá nhân mình.
Nhật Bản đang cố gắng khắc phục hậu quả của động đất và sóng thần |
Hai câu chuyện về nhân cách
Cũng có người cho rằng người Nhật đã quen với thảm họa nên cách họ đối phó cũng phải hơn những dân tộc khác. Điều này đúng một nửa. Một nửa không đúng là trong những hoàn cảnh khác họ cũng hành xử rất văn hóa. Ví dụ dễ liên tưởng là khi người Nhật ra nước ngoài, họ luôn mang lại sự tôn trọng của dân bản địa vì cách xử sự của mình.
Bởi vì người Nhật đã được giáo dục kỹ để gìn giữ và nâng cao thể diện quốc gia. Nhân nói chuyện này, trong 1 cuốn sách của mình, cụ Vương Hồng Sển cũng kể lại rằng trước chuyến đi Đài Bắc, chính quyền cũ đã gọi cụ lên nhắc nhở về ý thức giữ gìn quốc thể, quốc sỉ khi ra nước ngoài để mà giữ mình, không tổn hại đến uy tín quốc gia.
Thật không chính xác nếu nói toàn bộ người Nhật đều có nhân cách như vậy. Ngược lại, những người già ở Nhật hiện tại phàn nàn rằng lớp trẻ đang đánh mất đi nhiều giá trị tốt đẹp. Giới doanh nhân Nhật cũng bị chỉ trích vì thủ đoạn tinh vi của họ. Nhưng nhân cách của đại số đông người Nhật vẫn luôn được gìn giữ trong nội tại và được thừa nhận với bên ngoài.
Để kết thúc, người viết bài này xin lấy 2 ví dụ về nhân cách của người dân Nhật đối với cụ Phan Bội Châu của ta. Năm 1908 khi phong trào Đông Du bị giải tán, cụ Phan và các đồng chí của mình lâm vào cảnh khốn quẫn. Nguyễn Thái Bạt phải đi xin ăn dọc đường thì gặp ông bác sỹ là Asaba Sakitaro đem về nhà nuôi nấng.
Cùng đường cụ Phan phải viết thư tới ông Asaba – người mà mình không hề quen biết – nhờ Thái Bạt gửi giúp tới ông Asaba. Sáng Thái Bạt đem thư tới mà chiều đã nhận được hồi âm. Ông Asaba tặng số tiền là 1.700 yên (khoảng 5 tỷ đồng hiện tại). Trong thư gửi kèm, Asaba viết những lời rất mộc mạc rằng: “Nhặt nhạnh trong nhà, chỉ còn có thế, sau này nếu cần nữa, cứ viết thư đến sẽ có tiền gửi lại ngay.” Chính nhờ số tiền này mà cụ Phan có phương tiện để nuôi các thanh niên trong phòng trào Đông Du và chi cho các hoạt động khác cho những ngày mình còn tại đây.
Nhân cách người Nhật được đánh giá là kiên trì, chăm chỉ, hài hòa, kỷ luật, trật tự, trọng danh dự, tôn trọng người khác, thông minh nhưng khiêm tốn. Tường nhà và vách ngăn phòng của người Nhật thường không quét vôi mà dán giấy, trên nền giấy vẽ những bông hoa trang nhã.
Không nói ra nhưng người Nhật ví mình như những bông hoa dán tường, nằm im lặng ở góc xa nhất, nơi ít thu hút sự chú ý của mọi người. Nếu bạn không để ý thì thôi, nếu bạn để ý đến sẽ thấy vẻ đẹp tinh tế của nó. |
Năm 1918 sau khi trở lại Nhật, tìm về thăm ân nhân xưa thì cụ Phan hay tin Asaba đã tạ thế. Cụ Phan thấy “tự hổ thẹn là không lấy gì để tạ ơn người tri kỷ” nên đã ngỏ ý cùng người nhà của Asaba xin lập bia tưởng niệm ông. Lúc này, cụ Phan chỉ có 120 yên mà chi phí dựng bia tốn khoảng 200 Yên.
Trót hứa với gia đình ông Asaba, không còn cách nào khác, cụ Phan phải nhờ Lý Trọng Bá đến nói chuyện với ông thôn trưởng về nghĩa cử của ông Asaba năm xưa và trần tình rằng mình không đủ tiền. Ông thôn trưởng nghe xong cảm động vô cùng. Trong buổi họp phụ huynh tại thôn, ông kêu gọi mọi người trong thôn rằng:
“Nhân loại sở dĩ sinh tồn được lâu dài nhờ có lòng tương thân tương ái với nhau. Ông Asaba người thôn ta đem lòng nghĩa hiệp giúp cho một người nước khác đã làm tăng danh giá cho người thôn ta nhiều lắm. Trong thôn ta há chỉ có một mình ông Asaba là người hào hiệp sao? Nay hai ông Phan, Lý xông pha sóng gió muôn trùng, quý trọng người thôn ta, lập bia kỷ niệm ông Asaba.
Hai ông đối với người thôn ta có nghĩa khí chân tình như thế, nếu chúng ta chỉ hững hờ với họ, người trong thôn ta không thấy nhục hay sao? Tôi thiết tưởng chẳng những là nhục cho người thôn ta, mà còn nhục cho tất cả người Nhật nữa.”
Khi mọi người hỏi ý kiến của mình, ông thôn trưởng nói rằng: “Ý tôi là để các ông Phan, Lý mua đá và trả công thợ, còn việc vận tải và xây dựng, thì người trong thôn ta làm giúp như một nghĩa cử. Hy sinh một số tiền thù lao để hoàn thành bia kỷ niệm người nghĩa hiệp cũng là thiên chức của người Nhật chúng ta.”[1]
Hiện nay tấm bia do cụ Phan Bội Châu lập vẫn còn nguyên tại làng Umeda, quận Iwata, tỉnh Shizuoka, Nhật Bản.
Thế giới khâm phục Nhật Bản –> Trông người lại ngẫm đến ta?
Hà Văn Thịnh – Sứ quán vô cảm
Bản tin buổi tối ngày 16.3.2011, VTV1 dành đến hơn 5 phút để ca ngợi nỗ lực của Sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản trong việc “quan tâm” (!) cứu hộ, giúp đỡ người Việt tại Miyagi. VTV1 cứ nói đi nói lại về cái chuyện “có 3 xe bus” đã tham gia di tản – như thể rằng mượn cái “cấu trúc 3” (cấu trúc hoàn chỉnh) để ám chỉ sự hoàn hảo của nghĩa vụ và bổn phận?
Than ôi, nếu ai đã đọc BBC và các trang mạng khác thì biết rõ thực chất ngược lại: Sứ quán Việt Nam tại Nhật coi tính mạng đồng bào mình chẳng khác chi cỏ rác. Bằng chứng rất rõ (theo BBC): Dù có đến 31.000 người Việt đang sinh sống ở Nhật nhưng Sứ quán cũng chỉ làm việc buổi sáng và buổi chiều, mỗi buổi 3 tiếng đồng hồ. Gọi điện không có ai trực máy. Trong khi đó, Philippines thiết lập đến 3 đường dây nóng 24/24.
Quan tâm cái nỗi gì mà hành xử theo cách đó? Nếu liên hệ với các vụ lũ lụt vừa qua tại Việt Nam thì thấy rõ cách thức Chính phủ đối xử với người dân cũng chẳng khác là bao. Hàng trăm người chết ở Quảng Bình, Hà Tĩnh nhưng phải mấy ngày sau mới thấy quan chức cao cấp xuất hiện. Lễ hội Thăng Long không thèm dành dù chỉ nửa giây để mặc niệm hàng trăm đồng bào mình bị chết thảm. Đó là chưa nói hàng ngàn thỉnh cầu, kiến nghị, góp ý… của dân, không hề được các quan chức Chính phủ trả lời dù chỉ nửa câu. Chẳng nói đâu xa, hồi Đại hội X, vì ngây thơ và cả tin, người viết bài này đã viết 13 bức thư tâm huyết gửi về Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo địa chỉ 1A Hùng Vương, Hà Nội bằng đường chuyển phát nhanh, nhưng chẳng hề nhận được bất kỳ phản hồi nào. Không thể nói rằng thư không đến nơi, vì mỗi lá thư như thế tốn 11.000 đồng tiền gửi, nhất định phải đến tận tay, day tận chỗ (sau đó, có 6 thư được đăng trên báo Lao Động, Thanh Niên…).
VTV1 đã “tiết lộ thông tin” vào cuối bản tin, khi cho biết Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gọi điện cho Sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản để thăm hỏi (!). À, thì ra là thế. Dư luận bức xúc quá, quốc tế lên án, Chính phủ chỉ đạo trực tiếp, nên Sứ quán mới biết “thương” người dân! Có đời thuở nào như thế không? Ăn tiền dân, lộc nước thì phải làm hết sức mình phục vụ dân, quý và lo cho dân chứ? Chẳng lẽ các vị cho rằng cứ ăn trên ngồi trốc là được quyền “ban phát” cho những kẻ đã còng lưng mỏi gối làm quần quật để lo cho mình sao? Liên hệ đến chuyện vì lo cho tính mạng của hai nữ nhà báo Mỹ gốc Triều mà cựu Tổng thống B. Clinton đi máy bay tư nhân sang tận Bắc Triều để xin, để đón; mới thấy cái mạng người dân Việt bị chính quyền rẻ rúng đến mức nào. Xót và đau bởi cái nỗi đầy tớ luôn “tư duy” theo lối ban ơn mà quên đi cái bổn phận của kẻ công bộc nhất thiết phải vì dân, vì nước.
Đến bao giờ mới thay đổi cách nhìn, cách hiểu thiển cận và u ám đến thế của các ngài đang công tác trong Sứ quán Việt tại Nhật Bản? Sự vô cảm đến mức tàn nhẫn và lạnh lẽo ấy chẳng lẽ lại là tên gọi đích thực của hai chữ vì dân? Có lẽ cũng chỉ biết nói và thở dài. Thở dài cho đến khi nào liệt cả cổ, đau cả mũi, đỏ cả mắt mới thôi chăng?
Huế, 16.3.2011
Liên hệ “Cách mạng hoa nhài” với trình độ dân chủ của công dân toàn cầu
Ngày 23/2/2011, chungta.com đã đăng nội dung buổi trò chuyện để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về cuộc cách mạng hoa nhài. Từ đó đến nay, nhiều bạn đọc gửi tới chungta.com thêm một số câu hỏi. Để trợ giúp các bạn hiểu thêm về chủ đề phức tạp này, chungta.com mời triết gia, nhà văn Nguyễn Hoàng Đức cùng trò chuyện để giải thích rõ hơn một số điểm trong nhận thức về cuộc “Cách mạng hoa nhài”…
Bùi Quang Minh: Thưa ông, trong buổi nói chuyện lần trước, ông đã cho rằng cuộc cách mạng Hoa Nhài nổ ra tại Tunisia và Ai Cập là do nguyên nhân chính: Nhân dân các nước “tức nước vỡ bờ” vùng lên phế truất chính quyền độc tài “kiểu mới”, bị núp bóng tinh vi dưới mác giả danh “Chế độ Cộng hòa”.
Nhưng các chế độ cai trị hiện nay trên thế giới muôn hình muôn vẻ: quân chủ, quân chủ hình thức, cộng hòa, cộng hòa mạo danh… Vậy ông có thể cho biết đâu là những dấu hiệu cơ bản của chế độ độc tài được không?
Nguyễn Hoàng Đức: Chế độ độc tài giản dị nhất là thể hiện tính cá nhân tiếp theo là gia đình trị là tế bào mở rộng của cá nhân đó. Tiếp theo là dòng họ như các vương gia thuộc những gia đình anh em con cháu của cá nhân đó.
Thời đại mới mở rộng hơn, có khái niệm độc tài tập thể bởi vì chính thức trên lý thuyết và trong hiện thực lịch sử chữ “Tập thể” chỉ mở màn bằng chế độ công xã nguyên thủy khi loài người sống hợp quần. Cho đến đầu thế kỷ 20, với những khái niệm tập thể của Quốc xã Hitle, phát xít của Mussolini và xã hội tụ hội nhóm tập thể… Loài người chỉ có một cái nhìn nhảy vọt từ cá nhân đến toàn dân. Tại sao? Bởi vì cá nhân là ích kỷ, thu vén vào mình, giống người Việt vẫn nghĩ (Ích kỷ, hại tha – Vì mình hại người). Cụ thể trong một câu ca dao “Của mình thì giữ bo bo, của người thì thả cho bò nó xơi”.
Còn toàn dân nghĩa là người khác ở ngoài ngõ, dân tình ở ngoài chợ, mọi người ở ngoài thiên hạ, tạo dựng thành quốc gia và toàn thế giới. Người khác nghĩa là phổ quát, là công lý. Là lý trí của mọi người thực hiện hiến pháp cho môi trường sống của tất cả “cá nhân” mà mình được dự phần. Tại sao chữ “cá nhân” vào ngoặc kép? Vì cá nhân ở đây không là một viên gạch đứng rời rạc nữa, mà là viên gạch đã tham dự vào xây dựng đền thánh. Viên gạch đứng rời rạc chỉ có giá trị vài xu là giá trị hòn đất được nung. Nhưng viên gạch đứng trong lâu đài là viên gạch vĩ đại trong tầm vóc cả hệ thống.
Chế độ độc tài chính là viên gạch đáng giá vài xu nhưng nó đã tự vơ vào mình hệ thống cả lâu đài là dân tộc, là quốc gia và nó tôn vinh mình lên như một chiếc đầu tàu, và nó làm cho mọi người hiểu rằng nó là một đầu tàu (bằng tuyên truyền lừa bịp) đã kéo theo cả một đoàn tàu dài dằng dặc. Than ôi, một viên gạch làm sao biến thành đoàn tàu. Và một viên gạch ở ngoài hệ thống lâu đài làm sao có được “thương hiệu” của lâu đài. Cụ thể, trong trường hợp mới đây của nhà độc tài Caddafi khi đã dùng phi cơ chiến đấu, máy bay phản lực, súng liên thanh bắn thẳng vào nhân dân, nhưng vẫn cảm thấy mình yếu ớt (vì thấy mình là kẻ phi lý chỉ dùng bạo lực của sắt thép để áp đặt sự hợp lý đời sống của toàn dân). Caddafi đã ra điều kiện có thể rút lui đầu hàng nếu không bị xử tội và được đem toàn bộ tài sản của mình đi. Than ôi, bao nhiêu lời tuyên truyền dụ dỗ, đánh bóng của hắn vì nhân dân Libya đã lộ diện trần trụi sự ích kỷ cá nhân. Đây cũng là một minh chứng về bản chất của chế độ độc tài.
Bùi Quang Minh: Như vậy theo ông, tính cá nhân, tính gia đình trị là yếu tố cơ bản nhất để phân biệt?
Nguyễn Hoàng Đức: Vâng, có nghĩa là mọi lời nói hoa mỹ chỉ để che đậy dục vọng ích kỷ của cá nhân, gia đình và đồng bọn. Về việc này người Trung Quốc từ lâu đã thú nhận: Sự ham hố quyền lực của những kẻ độc tài là ở dưới một người ở trên vạn người. Nhưng ở dưới một người vẫn là ở dưới vua, mà tất cả độc tài đều thích làm vua để một mình ngồi trên đầu, trên vai thiên hạ, hưởng lộc tất cả. Lại còn định nghĩa rằng: Thế giới là của mình. Giống như Từ Hy Thái Hậu đã từng định nghĩa Thiên hạ là của nhà Thanh.
Bùi Quang Minh: Yếu tố cơ bản này nhận biết thế nào qua hoạt động của Nhà nước, của thể chế, của xã hội thưa ông?
Nguyễn Hoàng Đức: Rất đơn giản chủ nghĩa ích kỷ được đặt lên đầu tiên. Đỉnh chóp của quyền lực dân tộc – Nhà nước – Quốc gia đều là mình. Giống như vua Luis XVI của Pháp đã từng nói: Pháp luật là ta. Pháp luật là ta thì có nghĩa là pháp luật bị vô hiệu hóa tuyệt đối trở thành ý muốn, xúc cảm sự đồng bóng về ý thích của cá nhân nào đó. Cho nên ở nhiều bộ phim của Trung Quốc vua chúa có thể hạ lệnh giết người chỉ vì nước cờ của mình đi sai hay con dế của mình bị đối phương chọi thua…
Nhưng sự độc tài của cá nhân không dễ phơi lộ và hiển hiện một cách giản dị về dục vọng và quyền lợi như vậy, nó được mở rộng thêm như: độc quyền yêu nước, chỉ có ta là yêu nước còn cách yêu nước của mọi người không phải là yêu nước! Chỉ có ta là yêu nhân dân dù đó là cách đè đầu cưỡi cổ, nhưng ta có hệ thống tuyên truyền để tuyên bố rằng: đó mới là “tình yêu nhân dân chính đáng nhất”. Chưa hết, họ còn độc quyền chân lý, cho rằng chỉ có lời mình nói ra mới là chân lý, còn cái của kẻ khác nói ra là sai lầm và phản lại chân lý! Chưa hết, họ còn độc quyền cả giá trị phổ quát, khi bằng các cửa của ngoại giao và quan hệ với bên ngoài ở tầm vóc quốc gia, họ giữ rịt và loan báo rằng chỉ có cái của ta mới đáng bày tỏ, còn cái của mọi người hay ai đó thì không đáng gì, và nó nên chìm trong bóng tối không cần được biết.
Tóm lại, dễ hiểu hãy định nghĩa độc tài là gì: trước hết độc tài về dục vọng, một mình được hưởng trên đầu thiên hạ. Để làm được điều đó sự kế tiếp sẽ là độc tài về biện minh biện giải, rằng mình, chỉ có mình mới yêu nhân dân và đất nước! Cuối cùng, độc tài cả chân lý là của mình! Và thêm nữa, độc tài luôn cả những ngả đường ngoại giao phổ quát để loan báo với thế giới về tình yêu và chân lý của mình là “đúng đắn”.
Bùi Quang Minh: Theo ông, các nước văn minh như Mỹ, Anh, Pháp, Canada… hiện nay còn có độc tài không?
Nguyễn Hoàng Đức: Độc tài của loài người bao giờ cũng có, và ở các nước đó cũng có luôn. Tại sao? Vì con người còn yêu quyền lực và những gì do quyền lực đem lại thì còn yêu độc tài, bởi vì độc tài luôn ở đỉnh chóp quyền lực không phải chia cho ai cả.
Bùi Quang Minh: Tôi không đồng ý với ông về điểm này. Theo tôi Độc tài (hay thái cực ngược lại với nó chính là Dân chủ) là nói về mức độ đo chất lượng Nhà nước về mặt thể chế và tôn trọng công dân dựa trên quy định và thực thi theo hiến pháp:
– Các công chức Nhà nước nắm giữ quyền lực cao nhất mà không phải do dân bầu ra trực tiếp hay nguồn gốc quyền lực không liên quan đến dân (về bầu lên và phế truất) mà lại qua vòng vèo các tầng lớp trung gian, ma giáo.
– Thiếu tôn trọng công dân, sẵn sàng kiểm soát hành vi, tư tưởng của công dân, quyền và nghĩa vụ của công dân bị tước đoạt, chiếm đoạt tinh vi để phục vụ lợi ích, tham vọng của người nắm giữ quyền lực.
Như vậy, theo tôi Anh, Pháp, Canada… hiện nay không gọi là nhà nước Độc tài. Cơ chế dân chủ ở các quốc gia này sẽ rất sớm loại các gia đình như từng tại vị kiểu Mubarak, Ben Ali, Caddafi… Các nhà độc tài “kiểu mới” này sẽ sớm bị buộc từ chức, các thành viên gia đình, họ tộc hay thậm chí đảng phái của họ cũng bị xét xử vì vi phạm Luật quan chức/ Luật tham nhũng, Luật Đảng phái… Còn ở các nước như Nhật bản, Hàn Quốc, thì nhà độc tài chỉ một chút lạm dụng quyền lực, gây thiệt hại đến / tham ô của công… thì các thành viên chính phủ đều “chân thành” xin lỗi trước “chủ nhân” của mình là Nhân Dân rồi từ chức – cư xử tối thiểu theo đạo đức làm quan.
Điều này chỉ đúng khi các quốc gia văn minh này có cơ chế để nhân dân kiểm soát quyền lực của mình: đó là tam quyền phân lập, tổ chức bầu cử, minh bạch thông tin, tự do báo chí…
Còn không thiết kế tốt các cơ chế đó thì nhà nước gọi là của nhân dân nhưng lại dễ bị vài ba cá nhân đánh cắp, chiếm đoạt toàn bộ quyền lực và đưa đất nước trở về chế độ quân chủ về bản chất và họ đứng trên hay đứng ngoài hiến pháp, sản phẩm của chế độ sau quân chủ – cộng hòa.
Nguyễn Hoàng Đức: Tôi đồng ý, các nước này có cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực của mình. Hy Lạp, Anh, Pháp, Mỹ và vài nước khác nữa… dù họ muốn độc tài nhưng họ đã buộc phải chấp nhận chân lý phổ quát thuộc về nhân dân. Họ buộc phải sống trong cơ chế của hiến pháp và bị hiến pháp kiểm soát.
Pháp luật chỉ có ý nghĩa khi nó ở trên đầu mọi người, kể cả những cá nhân và tổ chức muốn độc tài. Mà những nước kia, họ đã tạo ra cơ chế của hiến pháp ở trên đầu họ. Nghĩa là, dù họ muốn cũng không thể được thỏa mãn để sở hữu một nền độc tài ở trên đầu pháp luật. Nhưng còn nhiều nước khác, nền độc tài của họ từ tâm lý toàn trị đã đổi ngang hiến pháp, họ vẫn nói như Luis XVI, ta là Pháp luật, thậm chí họ còn đi xa hơn ta ở trên đầu pháp luật, thậm chí những quyết định bằng miệng của nhiều cá nhân và tổ chức không chỉ đè bẹp mà còn lĩnh xướng và điều khiển cả nền pháp luật. Thậm chí biến pháp luật thành “án bỏ túi”.
Bùi Quang Minh: Thưa ông, chế độ độc tài “kiểu mới” tại Tunisia tồn tại 25 năm, tại Ai Cập là 30 năm và ở Libya đến nay đã tồn tại 40 năm. Theo ông thì vì sao có nơi chế độ độc tài tồn tại lâu, còn có nơi thì nhanh chóng sụp đổ?
Nguyễn Hoàng Đức: Người Trung Quốc có câu “ Trời không ở mãi với một nhà“, các triều đình của Trung Quốc tồn tại hàng vài trăm năm, như Hạ-Thương-Chu-Hán-Tùy-Đường-Tống-Nguyên-Minh-Thanh… điều này có nghĩa rằng chỉ có khi Trời “quyết định” không còn dùng “nhà” (dòng họ) nào nữa thì Trời mới kết thúc và chuyển đổi sang nhà khác. Nhưng câu này cũng có nghĩa rằng mọi cá nhân, gia đình và dòng họ cai trị đều muốn kéo dài sự cai trị của mình để sống trên đầu trên vai thiên hạ…
Nhưng Trời muốn một công bằng tối thiểu đã chuyển đổi ân lộc triều đình sang các dòng họ khác. Dù gia đình triều đình phong kiến kéo dài mấy trăm năm từ dòng họ này sang dòng họ kia, thì chỉ có tên vua và gia đình các vương gia thay đổi, còn mô thức và cơ chế vẫn vậy. Giống người Việt nói “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Các nước phương Tây theo mô hình Cộng hòa có thay đổi Tổng thống hay Thủ tướng vài năm một nhiệm kỳ, thì cũng vấn là cách kế nhiệm lần lượt như một thói quen.
Nhưng ở Tunisia và Ai Cập vừa mới đây là một sự kiện khác hẳn, nó không phải thay đổi tên Vua, tên Tổng thống mà thay đổi cả một thói quen “hiến pháp”, để rũ bỏ một chế độ “quân chủ biến tướng” thành chế độ cộng hòa thực sự của toàn dân. Điều này vô cùng vĩ đại. Chúng ta nên biết chỉ có lịch sử được manh nha bởi Socrate là người đầu tiên bàn về chế độ Cộng hòa. Sau đó được học trò của ông là Plato viết lại trong cuốn “Cộng hòa” (The Republic)… Mới đây nhiều chuyên gia phương Tây còn cho rằng, người châu Phi da màu “lạc hậu, mọi rợ” không thích hợp với chế độ dân chủ cộng hòa, sinh ra để sống như con cừu dưới chế độ bảo hộ của độc tài… Nhưng cuộc cách mạng ở Tunisia, Ai Cập và Libya đã xảy ra, rõ ràng nó nói lên rằng cuộc cách mạng dân chủ cộng hòa – nghĩa là công dân đòi sống trong chế độ lập hiến (không phải gia đình trị). Là cuộc cách mạng đã biến chuyển từ tầng đáy và tầng hầm một ý thức thượng tầng mà lẽ ra không có ở tầng đáy đã được thực hiện. Những người da màu đem cả những người vợ mảnh mai và đứa con bé nhỏ ra đường như sẵn sàng trở thành vật hiến tế, không phải cho thần thánh Alla nào cả mà cho quyền dân chủ, thân ái, như tà áo bên hông của họ nhưng vẫn hằng xa lạ như một chân trời không bao giờ với tới… Đó là phép lạ của thế giới này chính những chuyên gia da trắng sừng sỏ nhất cũng phải sửng sốt nhất.
Cách mạng Cộng hòa của người da trắng từ lý thuyết đến hiện thực đã xảy ra trước CN 300 từ thời nghị viện Aten-Hy Lạp đến Cộng hòa La Mã và chín muồi có tính hoàn bị châu Âu, nhân lõi của thế giới với Quân chủ lập hiến Anh và cách mạng Cộng hòa Pháp…
Bùi Quang Minh: Tôi nghĩ rằng, vài chục năm độc tài “kiểu mới” tồn tại có nghĩa là trải qua dăm ba thế hệ, mỗi thế hệ chừng 10-15 năm. “Hũ mắm đậy lâu ngày đã bốc mùi”. Sống lâu trong cái hũ mắm đó, nhân dân đi đến trạng thái “Con giun xéo lắm cũng quằn”. Nhưng với cơ chế khéo léo che đậy của độc tài “kiểu mới” vận hành như ông vừa nói thì họ thường dựa trên tính ích kỷ, tính gia đình trị, tính nắm giữ thông tin, chân lý tuyệt đối/ không bao giờ sai và dựa trên tâm lý đám đông để thổi mình lên thành “Thánh sống”. Còn ai chống họ, chỉ trích họ thì sẽ bị họ dùng cơ quan sức mạnh đàn áp, bịt miệng… Cơ chế tội ác đó lúc nào có thể dừng được? Người dân “kém hiểu biết” sẽ tiếp tục bị lừa bịp hay rồi sẽ “kém hiểu biết chính trị hơn nữa” sẽ làm cách mạng? Chờ vài thế hệ bị uốn nắn để thoái hóa, trở thành phế phẩm của các tiến trình chính trị sẽ ra sao? Con người khi đã mất năng lực chính trị tổ chức nên cuộc cách mạng để quay trở lại quá trình chính trị của dân tộc sẽ như thế nào? Ông nói Ai Cập, Tunisia vừa trải qua cuộc cách mạng “đòi sống trong chế độ lập hiến” thì tôi lại thấy tầm vóc cách mạng khác hẳn…
Mới đây theo anh nói và tôi cũng tin là vậy, cách mạng của nền Cộng hòa đã giác ngộ cả những vùng châu Phi: Tunisia, Ai Cập và Libya theo cách chúng ta hiểu cách mạng cả tầng đáy và tầng hầm… Theo cách của nhiều người nghĩ thì cuộc cách mạng tự giác hiến pháp “da màu” đó có thể lây men sang khu vực châu Á (nghĩa là từ da đen sang da vàng), ông nghĩ gì về khả năng này?
Nguyễn Hoàng Đức: Thực ra có một sự khác biệt khá xa về trình độ của da đen và da vàng, của châu Phi và châu Á. Theo nhiều chuyên gia nền văn minh thế giới được mở đầu từ châu Phi bởi vì nơi đó chịu ảnh hưởng mạnh nhất của mặt trời như sa mạc Sahara. Nơi đó đã mọc lên và hiển trị tháp Ai Cập và nền văn minh Ai Cập đầy bí ẩn và vĩ đại. Đa số người châu Âu theo Kito giáo. Kito giáo bằng qua biển Đỏ, biển Chết đã phái sinh một tôn giáo khác có tầm vóc – quy mô ngang ngửa với mình đó là Hồi Giáo. Đa số những nước cách mạng vừa rồi theo Tunisia (98% Hồi giáo), Ai Cập (90% Hồi giáo) và Libya (97% Hồi giáo), nghĩa là những quốc gia có quốc đạo. Quốc gia có quốc đạo nghĩa là những dân tộc được thổi một tâm linh phổ quát, nhắm về những lý tưởng tâm linh siêu việt phổ quát thuộc về thần thánh – đấng ở trên mình và sáng tạo ra mình, điều khiển mình.
Tóm lại, đó là nhữngg người dân vẫn ngước lên chiêm ngưỡng và tuân thủ những giá trị siêu việt cao hơn hẳn thân xác phàm tục của mình. Nhưng ở châu Á thì tình hình khác hẳn, lãnh tụ lý thuyết (nghĩa là cao hơn những lãnh tụ nhiệm kỳ nhiều lần), (lãnh tụ nhiệm kỳ chỉ có nghĩa là thay thế bằng xác thịt và tên gọi), đó là Tôn Trung Sơn. Ông đã nói: Ở Trung Quốc chưa bao giờ có những cuộc cách mạng về tư tưởng, tôn giáo mà chỉ có những cuộc bạo động ghế ngồi, lãnh thổ và đàn bà. Từ tự do dân chủ cộng hòa cũng chưa bao giờ xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc… Ở đó chỉ có từ quân chủ mà thôi (nghĩa là vua có quyền trên từng câu nói phạm húy của dân, có quyền mang dân ra chém nếu nó nói làm mình mất vui).
Về địa chính trị (tức là lý thuyết, chính trị của thế giới sẽ mọc rễ và lan truyền theo thể chất địa lý, nói giản dị dễ hiểu như người Việt bảo “đất nào sinh hoa đấy”. Ở châu Phi bao gồm những sa mạc đầy mặt trời ánh sáng và nắng, người ta di chuyển vô tận – không biên giới lại có tinh thần quốc đạo nên mọi giá trị tinh thần lan truyền và lên men phổ quát rất nhanh, không cá nhân nào đứng ngoài cuộc lên men đó. Chỉ trừ họ chịu nhục là một cái chết không có cộng đồng. Mà điều này với người có đạo là bất khả.
Trong khi đó châu Á được gọi là văn minh lúa nước nông nghiệp lõm bõm nước, bờ thửa chằng chịt lý trí èo uốt yếu ớt cái gọi là tư duy phổ quát gần như chưa hình thành, cái gọi là quốc đạo mới chỉ là bái vật giáo, thần cây đa ma cây gạo đem xôi oản đi cúng mong kiếm được ít tiền thiên vị rót vào túi của mình… Vì ý thức phổ quát tức công lý của người châu Á vẫn được mệnh danh là phương thức sản xuất châu Á (lạc hậu nhất) không thể xếp hạng vào nấc thang tiến bộ văn minh của thế giới. Úm ba lá, chung dung, nước đôi – ba phải , phép vua thua lệ làng tự ngã ích kỷ cho cái tôi của mình là lớn nhất chưa bao giờ tham gia vào cái gọi là dòng chảy của công lý cộng đồng nên, sự lây men của cách mạng tầng đáy ở châu Phi cũng thật khó bén rễ ở châu Á. Tôi nhớ một câu ông Nguyễn Trần Bạt đã so sánh người ta cứ nghĩ rằng người châu Phi là da đen mọi rợ, vậy mà trước ông Ban Ki-Moon họ đã có 2 chủ tịch Liên Hợp Quốc là người châu Phi, còn người châu Á da vàng thì chưa?
Bùi Quang Minh: Như vậy, chúng ta phần đông vẫn thiên về dục vọng nghĩa là ích kỷ, nghĩa là lợi ích cá nhân che mắt tất cả những mục đích xa vời khác và chúng ta khó tiến tới công lý phổ quát – cũng là môi trường hiến pháp cho tất cả mọi người . Và người châu Á chúng ta dễ bị nhà độc tài, thể chế độc tài “kiểu mới” thuần phục hơn người châu Phi…
Nguyễn Hoàng Đức: Cám ơn, bạn rất hiểu ý tôi. Người Việt có câu “Đèn nhà ai, nhà nấy rạng” hoặc “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi“. Người Việt chưa bao giờ có một câu giống như người Mỹ hiện đại nói: Nếu bạn nhìn thấy ai ức hiếp mà bạn không can thiệp, thì chính đến ngày bạn sẽ bị ức hiếp. Người Việt với cách nhìn ích kỷ buông xuôi cho qua chuyện, tưởng sẽ nhẹ thân mà sống nhưng quên mất rằng cuộc sống hiện đại đã định nghĩa rằng “Môi trường sống mới là tất cả”. Ngay cả sự dụ dỗ hay áp chế lành nghề của một nền độc tài “kiểu mới” cũng không bao giờ tạo ra môi trường sống cả.
Bùi Quang Minh: Theo ý anh về môi trường sống của con người là thế nào?
Nguyễn Hoàng Đức: Quá rõ ràng! Chúng ta ăn rau sạch để không đau bụng. Chúng ta có không khí sạch để không mắc bệnh hen suyễn. Một số nhà máy có thể tạo ra mỳ chính cho chúng ta mới đây nhưng lại làm ô nhiễm môi trường thì sự ngọt bát canh không thể đổi lấy sự trong sạch của không khí mà chúng ta hít thở từng giây. Đó là thức ăn và hơi thở. Còn cuộc sống của môi trường xã hội, nghĩa là tương quan giữa người với người chúng ta cần gì? Giữa thủ trưởng và nhân viên, giữa ông chủ và đầy tớ, giữa người nam và người nữ? Giữa người chồng và người vợ? Giữa bố mẹ và con cái.. chúng ta cần gì?
Rõ ràng chúng ta cần một không khí hiến pháp đủ mạnh đủ minh bạch, đủ trong sạch để mọi người được sống trong công bình, bác ái và hạnh phúc. Bạn không thể hạnh phúc khi cả tòa nhà của bạn được tích cóp cả đời xây lên trong 10 năm không bằng túi xách của một quý bà vợ sếp mua nhoáy một cái dăm chục nghìn đô. Xách một lần rồi quăng vào góc. Ai cho bà ta cái điều kiện để làm như vậy? Tài năng ư, đức hạnh của bà ta ư? Không bà ta là người đàn bà rất bình thường, thậm chí kém sắc kém tài, chỉ có điều bà ta được hưởng cơ chế tham nhũng vô tận của ông chồng. Bạn nghĩ rằng nhân dân lại yêu thích một kiểu mẫu hiến pháp tạo ra những con người được ưu tiên là “hoàng hậu mậu dịch“ đó sao? Và có bao nhiêu “hoàng hậu mậu dịch” như thế? Và còn những “ông hoàng” của những bà “hoàng hậu” đó thì sao?
Bùi Quang Minh: Vâng, môi trường sống có thể bất lợi cho đa số nhưng lại có khi lại có lợi cho một nhóm thiểu số. Đáng ngại nhất là văn hóa tức là cơ chế để có môi trường sống tốt hơn cho đại đa số và trong lâu dài, vĩnh cửu đã bị tê liệt, hủy hoại mà thay vào đó là cơ chế phản văn hóa tạo ra môi trường sống tốt chỉ cho thiểu số kiếm lợi, vơ vét cho ngắn hạn chỉ dăm ba đời người. Cái cơ chế phản văn hóa còn đưa thêm vào những lý do biện hộ cho tội ác gây cho bất kỳ cá nhân nào, dễ dàng quy kết đàn áp cá nhân, nhóm cá nhân… theo những lỗi vô tội vạ, đổ thừa, quy chụp chính trị.
Vậy thì theo ông sự tồn tại của một nhà độc tài, một chế độ độc tài hàng vài chục năm như ở Tunisia, Ai Cập, Libya… liệu có phải là nghịch lý của dân tộc, của thời đại không?
Nguyễn Hoàng Đức: Tôi nhớ một câu nói rất nổi tiếng của văn hào Dostoievski (1821 – 1881) – thủ lĩnh tinh thần của dân tộc Nga – một nước Nga lạc hậu bậc nhất của châu Âu cứ nhi nhoe đòi tiến lên công xã nguyên thủy tuyệt đối, ông đã buông một câu: “Nước Nga là một cú chơi xỏ của Thượng Đế”. Có những dân tộc được làm thiên sứ! Có những dân tộc được làm tư tế! Có những dân tộc được làm người lĩnh xướng cho dàn đồng cao! Có những dân tộc chỉ là dao thớt để băm chặt dâng lên bàn tiệc! Có những dân tộc như chỉ là trò chơi xỏ của Thượng Đế.
Dân tộc nào lạc hậu thì chỉ là dao thớt và “chơi xỏ” của càn khôn. Còn những dân tộc khôn ngoan phải tự giác nhận ra sứ mệnh cao quý của mình. Chính người châu Phi đã làm được điều đó ở đầu thiên niên kỷ thứ 3 này. Một sứ mệnh chưa từng thấy trong lịch sử, tôi chắc chắn như vậy và loài người chắc không thể có kết luận nào khác. Còn những dân tộc lạc hậu và chậm tiến khác liệu có cam lòng để trở thành “dao thớt” của Chúa mãi hay không? Câu hỏi đó được trả lời cách nào đó là tùy vào trình độ phản tỉnh lương tri của mỗi cá nhân cũng như của dân tộc bao trùm lên nó.
Bùi Quang Minh: Xin cảm ơn ông về buổi trao đổi thú vị hôm nay.
Trao đổi/Nhận xét | Tổng số: 5 |
Như vậy là các ông Nguyễn Công Tâm, nguyen van hoang đều nhất trí là cần phải học hỏi, coi tri thức là quan trọng cho dù nguồn gốc của kiến thức là ở phương Tây, hay phương Đông. Thế cũng đúng với tôn chỉ của website này.
1 ông thì muốn học để ưu tiên có ổn định trong ngắn hạn, còn 1 ông thì muốn học để thay đổi ngay cho sự ổn định trong dài hạn nên mỗi ông có cách tìm ra cái hay/ cái dở để sử dụng. Theo tôi, trong dài hạn mới cần tầm vóc của tri thức. Ví dụ, hàng triệu người lo trong ngắn hạn, hàng ngày không bị bất cứ thằng móc túi nào móc túi mình (trái luật pháp); hàng triệu người ấy vẫn sẽ không tránh khỏi, trong hàng chục năm trời bị dăm ba thằng quan chức, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng,… ‘móc túi’ Nhà nước (làm đúng quyền “luật pháp” trao) để rồi công nợ chung của “hàng triệu người ấy” sau hàng chục năm là hàng chục tỷ USD… Ổn định ngắn hạn là tránh thằng móc túi nào múc túi mình và ổn định dài hạn là tránh bị quan chức tham nhũng móc phần túi của mình gửi ở Nhà nước? Tầm vóc trí tuệ nào học hỏi được sẽ xứng với kết cục đó mà thôi!
Còn tôi thấy thêm 1 điều: ông nguyen van hoang khi viết comment có ý chê tri thức phương Tây khi dùng tiêu đề “Dân chủ kiểu Mỹ, Pháp có gì mà khen?”, hoặc ông không tìm ra gì là tốt, chỉ thấy họ toàn cái xấu mà ở môi trường ổn định nhà ông đã khắc phục, đã ưu việt hơn nhiều, chẳng bao giờ lặp lại như ở Mỹ, Pháp… Thêm nữa, cách ông hỏi thực ông Đức, ông Minh – tác giả bài viết có tính tri thức về chuyện có cầm súng không khi có chiến tranh chứng tỏ ông nguyen van hoang không quan tâm đến thực chất tri thức được cung cấp mà quan tâm hơn đến con người.
Kiểu ngụy biện của ông nguyen van hoang rất nguy hiểm khi cãi nhau không được thì tìm điểm yếu trên con người tham gia để hạ bệ cái tri thức người ta nói ra! Giống như đang tranh luận về tính đúng đắn bất diệt của triết học Marx thì lại cãi Marx già rồi, Marx túng thiếu thì nói làm gì đến triết học của lão ta! Ôi, căn bệnh của người lười học ở phương Đông là thế!
Tôi đồng ý với ông Tâm là chúng ta cần học hỏi các nước tiến bộ trên thế giới. Nhưng không phải cách học hỏi một cách máy móc.
Thực sự tình hình mỗi nước mỗi khác, không thể áp đặt được, chúng ta có thể học tập phương Tây về khoa học, kỹ thuật, kinh tế… nhưng về văn hoá, chính trị… thì còn phải phân tích kỹ lưỡng, đặc thù văn hoá và con người Việt Nam. không thể áp dụng máy móc mô hình dân chủ Phương tây như Hy Lạp, Mỹ, Pháp đưa vào Việt Nam, Phương Tây vẫn chưa hoàn toàn là cả thế giới.
Tôi chỉ muốn ông Tâm chú ý điều đó. Ngay cả xã hội Mỹ, Pháp, Việt Nam hiện nay cũng vẫn còn nhiều mâu thuẫn sâu sắc phải giải quyết. Còn việc tôi nói về chiến tranh chống Mỹ, Pháp là việc của quá khứ, chúng ta nhìn lại quá khứ để có những bài học bổ ích cho hiện tại.
Như hầu hết những người Việt Nam khác, tôi mong muốn được sống yên bình, ổn định. Ổn định chính trị để phát triển kinh tế là một điều kiện tất yếu để quốc gia phát triển.
Mong rằng mỗi người chúng ta đóng góp những ý kiến, hành động quý báu để đất nước ngày càng ổn định chính trị và phồn vinh về kinh tế.
Thánh Gandhi khi tổ chức đấu tranh bất bạo động để chống lại đế quốc Anh có nói: Chúng ta chống lại việc người Anh đô hộ nhưng không chống lại thể chế Anh, vì thể chế của họ tiến bộ hơn của chúng ta.
Trong tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu đã dẫn lời phương ngôn của Pháp và Mỹ, như vậy cũng chứng tỏ Chủ tịch chỉ huy chống lại sự xâm lăng của Pháp và Mỹ, nhưng không chống lại tư tưởng tiến bộ của họ.
Giờ có rất nhiều lãnh đạo cao cấp Việt Nam ta muốn chống lại sự áp đặt của Mỹ nhưng lại bỏ nhiều tiền để gửi con đi học ở Mỹ (cả Trung Quốc cũng vậy), như thế chứng tỏ người ta có thể chống Mỹ nhưng vẫn thừa nhận sự ưu việt của nền giáo dục Mỹ.
Cách nghĩ của a. Nguyen Van Hoang là cách nghĩ hạ tầng của một người lính. Trong khi những viên tướng và ban tham mưu tìm cách đánh ngoại giao để chinh phục đối phương thì anh Hoang chỉ có cách nghĩ trực tiếp về việc cầm súng.
Anh nên tự biết trình độ của mình, ở tầm của người lính thì đừng nên bàn những chuyện đại sự của cấp tướng. Anh có thể nhầm lẫn giữa đánh Pháp và Mỹ với nền dân chủ, thì chẳng khác gì trong quân sự người ta cứ công thành là xong. Trong khi đó binh pháp cho rằng “Giữ thành còn khó hơn công thành”. Sau khi có thành rồi người ta phải tìm cách xây dựng phát triển thành, việc đó là của tay cuốc tay cày, nhưng anh Hoang vẫn cứ muốn cầm súng đứng tại chỗ hát bài ca chiến thắng.
Một dân tộc có bản lĩnh thực sự, thì phải biết chiến tranh trong thời chiến, và phải biết xây dựng trong hòa bình. Nếu không làm được hai điều kế tục khác hẳn đó, thì chiến thắng có ý nghĩa gì?
Các ông Đức và Minh bàn về dân chủ, quyền của dân, nhưng tôi hỏi thực nếu đất nước bị xâm lăng như khi đế quốc Mỹ và thực dân Pháp vào cướp nước ta các ông có dám cầm súng theo cách mạng để đấu tranh giải phóng dân tộc không.
Các ông khen dân chủ ở Pháp, Mỹ, vây tôi mạn phép hỏi hai ông, Mỹ và Pháp đàn áp giết hại nhân dân Việt Nam là dân chủ kiểu gì???
Cám ơn ông Minh và ông Đức về bài (Liên hệ “Cách mạng hoa nhài”….).
Với tầm hiểu biết hạn hẹp của người dân muốn hỏi hai ông kĩ hơn:
Ở 1 nước có 1 tổ chức (ví dụ Đảng dân chủ Ai Cập) đi lên từ sức mạnh của nhân dân, rồi cầm quyền vĩnh viễn không nhường tổ chức khác, cai trị theo hiến pháp của họ (gọi là hiến pháp của đất nước, ví dụ Hiến pháp Libya). Lợi ích chính trị của tổ chức này có lợi nghiêng hẳn về ~ người cầm đầu trong tổ chức đó chứ không phục vụ đông đảo nhân dân (ví dụ Ngài Caddafi, ngài Ben Ali, ngài Mubarak). Do vậy nước đó tụt hậu so với pt của nhân loại. Vậy chế độ đó có gọi là độc tài không?
Hay là do khó quy kết trách nhiệm cho cá nhân, cho tổ chức thì khó gọi được là độc tài?
Việt Nam ‘chi bạo’ nhất thế giới
Người Việt Nam tiêu xài lạc quan nhất thế giới”, đó là tựa một bài viết đăng trên báo Saigon Tiếp Thị nói rằng ở Việt Nam, làm ra một đồng thì xài tới 2, 3, 4 đồng. Vì sao người Việt được đánh giá và xếp hạng cao như vậy?
AFP
Cửa hàng bán các loại xe hơi hạng sang
Ông Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, năm nay người dân Việt mình ăn Tết Tân Mão lớn chưa từng thấy. Bên cạnh đó, tổ chức cung cấp thẻ tín dụng toàn cầu Master Card Worlwide cũng phổ biến kết quả khảo sát cho thấy qua thăm dò ý kiến trên 10 ngàn người thuộc 24 quốc gia, vùng lãnh thổ thuộc Châu Á, Thái Bình Dương, Châu Phi, khu vực Trung Đông thì nói về ăn chơi, giải trí, người Việt dẫn đầu so với các nước Hàn Quốc, Hồng Kông, Australia.
Mặt khác, người Việt khi sang thăm người thân tại các nước Hoa Kỳ, Australia, Singapore đều nhận thức rõ về tinh thần tiết kiệm của dân chúng các quốc gia được xem là sung túc ấy.
Vẫn căn cứ vào những số liệu thống kê thì sức mua, tiêu xài tiền của người Việt Nam tăng rất nhanh, mỗi năm tăng tới 20% tương đương với 53 tỷ đô la, thị trường bán lẻ đứng thứ tư trên thế giới chỉ sau các nước được xem là “cường quốc” có đông dân, gồm có Ấn Độ, Nga và Trung Quốc. Cũng có lẽ vì bản xếp hạng này mà người Việt Nam được đánh giá là “tiêu xài lạc quan nhất thế giới”.
Lời cảnh tỉnh, mỉa mai
Góp ý về sự đánh giá này, Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam nhấn mạnh:
“Nói như vậy có lẽ đó là một lời phê phán, cảnh tỉnh thì đúng hơn; họ nói đúng ‘chi bạo’ hay nói cách khác là nhiều khi không lượng được sức mình, trong nhiều chuyện lắm.
Cái cách của mình không phù hợp với thực lực mà mình có, Việt Nam hiện nay là một đất nước đứng thứ 13 về dân số, trên thế giới. Ở một nước mà thiên nhiên không lấy gì làm ưu đãi cho lắm, nếu muốn phát triển thì có lẽ phải học như người Nhật, dạy cho con em họ biết rằng, Nhật là một nước nghèo về tài nguyên, khoáng sản, vì vậy chỉ có một cách là phải cắn răng lại để mà làm việc, lao động, có như vậy nước họ mới phát triển được.
Trong lúc đó, Việt Nam, dân số rất đông, trình độ kinh tế rất thấp so với các nước khác trong khu vực và so với thế giới, muốn phát triển, người Việt Nam phải cần cù, biết cách vừa làm, vừa dành dụm để tạo nên cơ nghiệp.”
Nói như vậy có lẽ đó là một lời phê phán, cảnh tỉnh thì đúng hơn.
GS Tương Lai
Giáo sư Tương Lai tự đặt cho mình câu hỏi : “Ai chi bạo…”?
Và chính ông cũng tự đi tìm cho mình lời giải đáp:
“Nói cho cùng, không phải tất cả mọi người đều ‘vung tay quá trán như thế đâu’, nhưng nếu nhìn một cách thật nghiêm khắc thì phải nói đây là một nhược điểm của riêng mình, vì vậy khi người ta nhận định về mình như thế, là người ta chê và sự chê bai đó là đúng, người Việt cần phải thấy rõ cái nhược điểm ấy của mình, để biết cách tằn tiện, biết lượng sức để mà đưa đất nước mình đi lên. Trong chuyện đó, phải giáo dục cho con em mình ngay từ khi còn bé, ở ghế nhà trường cần phải có ý thức đó, nếu không làm được như vậy, thì Việt Nam khó mà đuổi kịp được với thế giới.”
Kẻ ăn không hết, người lần không ra
Chi xài quá mức vốn liếng mà mình làm ra được, dễ đưa tới những tệ đoan xã hội, ăn xài hoang phí, ông Quý một người dân sinh trưởng ở Bồng Sơn, Miền Trung VN thấy rõ điều đó, khi đón nhận tin “người Việt tiêu xài lạc quan”:
“Câu này có ý mỉa mai, bản chất của người Việt Nam là ăn tiêu dè xẻn, dùng sức lao động và mồ hôi để làm ra tiền, như người ta thường nói ‘khéo ăn thì no, khéo co thì ấm’.
Phải dành dụm, tiết kiệm, để lo xây dựng gia đình, lo cho con cái ăn học. Tuy nhiên trong thời buổi bây giờ, có nhiều giới chức kiếm được tiền rất dễ dàng, hoặc vì có chỗ ngồi rất tốt, nhận được tiền hối lộ, lo lót, họ tiêu xài tiền như ‘ném qua cửa sổ’. Thứ hai là có những người ‘móc ngoặc’ công việc làm ăn suông sẻ, kiếm được rất nhiều tiền nên ăn chơi, một đêm có thể tiêu xài hai, ba chục triệu đồng tiền Việt Nam.”
Theo ông, có những địa phương trên đất nước Việt Nam, dù làm việc cật lực, người dân cũng chưa đủ ăn:
“Ở miền quê, nhất là vùng Bồng Sơn của chúng tôi, có những người suốt đời còng lưng, làm việc trên những thửa ruộng, trên nắng, dưới nóng, mà một ngày không có đủ hai bữa cơm cho no bụng, vậy mà ở thành phố con ông, cháu cha, những người móc ngoặc đã vung tiền, tiêu xài.
“Ở miền quê, nhất là vùng Bồng Sơn của chúng tôi, có những người suốt đời còng lưng, làm việc trên những thửa ruộng, trên nắng, dưới nóng, mà một ngày không có đủ hai bữa cơm cho no bụng.
Ông Quý
Nếu là người hiểu biết, họ cho đó là một câu chế nhạo, bởi vì đồng tiền kiếm được không do mồ hôi, nước mắt, là một . Thứ hai là họ không tin ở ngày mai, bây giờ có tiền thì cứ xài, không biết rằng ngày mai, họ còn ngồi ở chỗ đó nữa hay không, còn xài được tiền hay không, xài được ngày nào hay ngày ấy.”
Theo báo chí nước ngoài thì hình như người Việt Nam đang sống theo kiểu cách ‘ném tiền qua cửa sổ’, vì dư luận vẫn thường nghe kể lại rằng, có bao cây cầu xây mà không ai đi qua, bến cảng dựng lên mà không tàu thuyền nào cập vào, sân bay thẳng tấp không máy bay nào tới đáp, hàng lô biệt thự, cao ốc vô chủ ở Hà Nội và Saigon bỏ trống lâu nay.
Còn người dân ‘thấp cổ bé họng’ thì thường nói ‘có những món hàng mà người mua không bao giờ dám đụng tới’ và ‘có những thứ hàng cao cấp bạc triệu mà người dùng không bao giờ phải mua sắm cả’.
Theo dòng thời sự:
- Doanh nhân Việt Nam tậu máy bay trực thăng riêng
- Hàng xa xỉ có thực sự cần thiết? (Phần 2)
- Cách biệt giàu nghèo gia tăng
- XHCN và khoảng cách giàu nghèo
- Việt Nam ngày nay: kẻ ăn không hết, người lần không ra
- Tổ chức lễ hội nhằm biển thủ công quĩ nhà nước
- Hàng xa xỉ có thực sự cần thiết? (Phần 1)
- 1.000 năm Thăng Long–Hà Nội: thi nhau xài tiền và phá!